🥌 Thuyết Trình Về Cải Lương
Thiền Lâm. Vietnam - Cali Today News - Hội nghị trung ương 7 của đảng Cộng sản Việt Nam đã kết thúc với cách hô khẩu hiệu thuần túy về 'cải cách tiền lương' nhưng đã chẳng quyết được vấn đề gì một cách thực chất về 'giảm biên chế'. Chủ trương 'cải cách tiền lương' - có lẽ được chỉ
Đề bài: Thuyết minh về cải lương - nghệ thuật sân khấu truyền thống Nam bộ Việt Nam của nhiều tuồng đã được khán giả yêu chuộng và đã thu hút rất nhiều khán giả hâm mộ Cải lương. Những chương trình truyền hình như Cánh chim không mỏi, Vầng trăng cổ nhạc
Ngày 28-3-1917, ông Lương Khắc Ninh, chủ bút báo Nông Cổ Mín Đàm từng thành lập gánh hát bội Châu Luân ban ở Sài Gòn (1905), có diễn thuyết tại nhà hội khuyến học Sài Gòn về "Hí nghệ cải lương".
Thuyết minh về cải lương - Bài làm 1 của một học sinh giỏi Văn tỉnh Bình Thuận Người Kinh Bắc tự hào khi nhắc đến dân ca quan họ. Người xứ Huế lại tự hào về những câu Nam ai, Nam bình, những điệu hò mái nhì, mái đẩy man mác. Người dân Nam Bộ cũng hãnh diện khi nói về những câu cải lương mùi mẫn làm say lòng ngưòi.
Điểm sơ qua một số gánh hát Cải lương được thành lập từ những ngày đầu và những phong cách dàn dựng sân khấu, biên soạn kịch bản, chúng ta thấy rằng Cải lương đã có một bề dày lịch sử : 1920: Ba gánh Tân Thinh, Văn Hí ban, Tập ích Ban 1925: Phước Cương 1927: Phụng Hảo (Cô 7 Phùng Há) và Gánh Đồng Nữ Ban của Bà Trần Ngọc Viện (rất đặc biệt vì gánh hát diễn viên toàn là nữ
Qua một quá trình dài 30 năm trong nghề và trực tiếp được nhận bằng khen lần này để ghi nhận đóng góp của mình cho nghệ thuật dân tộc là một động lực lớn để tôi và các anh chị em đồng nghiệp có thể cố gắng phấn đấu nhiều hơn nữa để giữ gìn những giá trị
Đặng Thùy Dương đi hát được nửa năm ở một số nhà hàng. Niềm đam mê Cải lương của Thùy Dương bắt nguồn từ lúc nhỏ được đi hát với ba mẹ. Tham gia chương trình, bà mẹ đơn thân thể hiện tiết mục "Em đi chùa Hương", với phần tân nhạc mang âm hưởng Dân ca Bắc bộ. Thế nhưng sự lựa chọn mạo hiểm của Thùy Dương lại không thuyết phục được 3 HLV. 0:00
Cải lương nổi tiếng là thế nhưng lịch sử và nguồn gốc ra đời của nó vẫn còn là đề tài tranh luận của nhiều học giả nổi tiếng.Có người cho rằng, cải lương xuất phát, manh nha từ những năm đầu thế kỉ hai mươi, từ những năm 1916 hoặc 1918.
Nghị quyết nêu rõ, trong khu vực Nhà nước, giai đoạn từ năm 2022 đến 2022 sẽ tiếp tục điều chỉnh tăng lương cơ sở, bảo đảm không thấp hơn chỉ số giá tiêu dùng và phù hợp với tốc độ tăng trưởng kinh tế; không bổ sung các loại phụ cấp mới theo nghề. Tuy nhiên, đến năm 2022, mức lương cơ sở sẽ hoàn toàn được bãi bỏ.
1eGZf. GIỚI THIỆU VỀ CẢI LƯƠNG NGUỒN GỐC – LỊCH SỬ1. Hình thànhThời điểm ra đời của bộ môn nghệ thuật sân khấu Cải Lương còn gây tranh cãi và còn nhiều bỏ ngỏ. Tuy nhiên, theo phần đông đa số giới nghiên cứu học thuật và nghệ sĩ thì Cải Lương ra đời vào năm 1918, hoặc có thể tạm chấp nhận một khoảng thời gian chung rằng Cải Lương được xuất hiện vào khoảng cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ Lương được cho là có nguồn gốc từ dân ca và nhã nhạc cung đình, dần dần được cải biên theo đờn ca tài tử và hình thành lối ca ra bộ, tiền thân của Cải cung đình và nhạc tế lễ Cải Lương là một loại hình nghệ thuật đàn hát bắt nguồn từ cơ sở là những bài dân ca miền đồng bằng sông Cửu Long và nhạc tế lễ thường được biểu diễn trong cung đình ở miền Trung. Do bị đày đoạ vào Nam khai khẩn đất hoang hay theo phong trào Cần Vương, nhiều nghệ sĩ nhã nhạc cung đình Huế đã phải rời quê nhà để định cư ở miền Nam, mang theo nỗi buồn tha hương sâu sắc. Không được tiếp tục biểu diễn cho vua chúa, họ quay sang thành lập những nhóm hát phục vụ nhân dân trong các dịp tế lễ, ma chay. Qua nhiều năm, nhạc lễ được biến hóa nhiều hơn, kết hợp với các làn điệu dân ca miền Nam và gần như thoát ly khỏi các âm luật của nhạc lễ cung đình. Khi sinh hoạt âm nhạc này càng được phổ biến rộng rãi, nhạc lễ dần thay đổi đối tượng sang quần chúng lao động và con người bình dân để phù hợp với nhu cầu nhân dân miền Nam. Từ đó, nghệ thuật Đờn ca tài tử đã ra ca tài tử Đờn ca tài tử là loại hình nghệ thuật giản dị phục vụ cho người Nam Bộ bình dân. Âm luật không hề phức tạp mà mang tính thư giãn. Vào khoảng cuối thế kỷ 19 đến đầu thế kỷ 20, các nhóm đờn ca được thành lập để tiêu khiển, phục vụ trong các buổi lễ tại tư gia, như đám tang, lễ giỗ, đám cưới,… nhưng chưa biểu diễn trên sân khấu hay trước công chúng. Một ban nhạc Đờn ca tài tử Sài Gòn năm 1911 Ảnh Wikipedia Tiếng ViệtCa ra bộ Để một loại hình nghệ thuật ra đời và trở thành một bộ môn nghệ thuật phát triển rộng lớn cần có 4 yếu tố có tác phẩm, có lực lượng biểu diễn, có phong cách riêng và các tổ chức sinh hoạt. Đờn ca tài tử Nam Bộ dần hội tụ đủ 4 yếu tố này và thêm vào đó là nhu cầu rất cao của người dân trong việc thưởng thức một loại hình âm nhạc phù hợp với bản tính, cuộc sống phóng khoáng của mình. Đờn ca tài tử ban đầu chỉ là những buổi gặp gỡ, tụ họp mang tính chất nhỏ và gần như không có sự di chuyển. Dần dần để minh họa sắc nét hơn, phong phú hơn các biểu cảm nhằm phản ánh được thực tế, hay nội dung tưởng tượng, đờn ca tài tử đã có bước chuyển mình sang sân khấu biểu diễn để đáp ứng những thay đổi về nhu cầu thẩm mỹ và giải trí của người dân miền khi lên sân khấu rộng lớn, trung tâm sân khấu lúc này lại là các nghệ sĩ biểu diễn nên cần phải có những động tác và di chuyển để không khiến sân khấu bị đơ và trống vắng. Từ đây, hình thành loại hình nghệ thuật Ca Ra Bộ, tức là ca hát và có diễn tả ra điệu bộ. Chính là nguồn gốc loại hình nghệ thuật biểu diễn Cải Lương để phân biệt với phong cách Đờn ca tài ra bộ vở “Lục Vân Tiên”Hình thành cải lương Vào năm 1918, theo Vương Hồng Sến, toàn quyền Đông Dương Albert Sarraut cho phép mở gánh hát có bán vé và diễn ở các rạp hát lớn ở miền Nam. Nhân cơ hội đó, ông Andre Thận và Châu Văn Tú đã đưa Cải Lương lên sân khấu với vở Gia Long tẩu quốc diễn ở Rạp hát Tây Sài Gòn. 2. Phát triển và Hưng thịnhTại miền Nam Việt Nam, thập niên 1960 là thời kỳ hưng thịnh nhất của Cải Lương miền Nam. Các sân khấu Cải Lương được đông khán giả đến xem hàng ngày, nên ngày nào cũng có diễn xuất, nhờ đó, các soạn giả và nghệ sĩ có cuộc sống khá sung túc. Thời bấy giờ, Cải Lương phát triển đến mức một số ca sĩ tân nhạc tìm cách chuyển nghề sang hát Cải Lương để tìm kiếm thành công. Một số gánh hát Cải Lương nổi tiếng có thể kể đến như Đoàn Thanh Minh – Thanh Nga, Thống Nhất, Tiếng Chuông Vàng,… Đoàn cải lương Thanh Minh – Thanh Nga Ảnh Báo Thanh NiênMột số nghệ sĩ nổi tiếng Út Trà Ôn, Hữu Phước, Thành Được, Hùng Cường, Tấn Tài, Út Bạch Lan, Ngọc Giàu, Thanh Nga, Lệ Thủy,…4. Thoái tràoVào cuối những năm 1980, Cải Lương bắt đầu tuột dốc. Các rạp hát thưa dần suất diễn. Khán giả đến rạp hát để xem cải lương cũng thưa dần, nhất là đối với khán giả trẻ. Các đoàn Cải Lương phải đi lưu diễn ở các vùng sâu, vùng xa để tìm khán giả. Về nguyên nhân dẫn đến sự thoái trào của Cải Lương, soạn giả Huỳnh Anh lý giải “Cuối thập niên 1980, những năm đầu thập niên 1990, đất nước bắt đầu mở cửa. Cùng với sự mở cửa hội nhập của đất nước là các loại hình văn hóa khác du nhập vào Việt Nam, nhất là phim ảnh, thu hút được nhiều khán giả, nhất là đối với giới trẻ. Vì vậy, sân khấu không còn là phương tiện giải trí duy nhất đối với công chúng”.Nguồn tham khảo 1. Wikipedia tiếng Việt – Cải Lương2. Nguyên Chương – Cải Lương từ hưng thịnh đến thoái trào – Báo Ấp Bắc điện tử3. Quân Nguyễn – Nguồn gốc ra đời của Cải Lương – TÍNH CHẤT KỊCH BẢNCải Lương có một đặc điểm nổi bật được xem là “loại hình nghệ thuật tình cảm”. Kịch bản Cải Lương thường có cốt truyện xúc động, nhưng vẫn có những vở Cải Lương mang ý nghĩa phản ánh hiện thực xã hội. Tác phẩm Cải Lương thường được xây dựng trên những xúc cảm cơ bản như bi, hài, anh hùng ca và trữ tình. 1. Chất anh hùng caXúc cảm anh hùng ca thường xuất hiện trong những vở Cải Lương cách mạng. Chất anh hùng ca có từ truyền thống, qua những vở tuồng cổ Cải Lương từ năm 1921. Đến Cải Lương cách mạng, kháng chiến, chất anh hùng ca phát huy trọn vẹn. Lớp diễn “Phàn Định Công đề cờ” trong vở “San Hậu” do nghệ sĩ Hoàng Hải diễn Ảnh Tính biXúc cảm bi được xem là cảm xúc chủ đạo trong các vở Cải Lương, hướng khán giả xúc động với những câu chuyện tình nhân thế. Tử biệt là nút thắt trong câu chuyện và mọi xung đột mâu thuẫn trong câu chuyện tình cảm đều khiến người xem xúc động. Ví dụ như cảnh Thúy Kiều gặp Từ Hải trong vở Cải Lương “Thúy Kiều”. Từ Hải là con người lý tưởng, chỗ dựa cho thân phận hẩm hiu của Kiều, nhưng cuối cùng lại chết vì tình yêu. Rất nhiều vở tuồng kinh điển của Cải Lương dùng tử biệt để đẩy xung đột kịch lên đển đỉnh điểm, như cái chết của Thi Sách trong “Tiếng trống Mê Linh” đã khiến Trưng Trắc đứng lên khởi nghĩa trả thù cho kịch bản Cải Lương chứa đựng cả hai xúc cảm bi và hài, nhưng cảm xúc bi trong kịch bản Cải Lương không phải là những bi kịch không lối thoát. Con người vượt qua cái bi như vượt qua số phận, vượt qua những khó khăn của cuộc đời để hướng đến hạnh phúc. Những nhân vật trên sân khấu Cải Lương chính là những con người mang tính cách rất Nam Bộ – mạnh mẽ, sẵn sàng đối đầu với khó khăn để mưu cầu hạnh phúc. Niềm vui sum họp luôn là kết cục của những vở Cải Lương, phù hợp với văn hóa truyền thống Việt đau của người mẹ khi con hy sinh trong trích đoạn Cải Lương “Hoa đất” do nghệ sĩ Hồng Thủy diễn Ảnh Tính khôi hàiNếu như cảm xúc bi trong Cải Lương được tác giả tập trung khai thác ở diễn xuất, tình tiết, âm nhạc, lời ca, thì cảm xúc hài lại tập trung trong lối diễn xuất của diễn viên có tính ngoại hình nhiều hơn là nội tâm nhân vật. Nhân vật hài xuất hiện nhằm làm giảm tính bi lụy của cảnh diễn hay tiết chế tính xung đột của hành động kịch. Cái hài trong Cải Lương là sự điểm xuyết vào chuỗi bi lụy kéo dài. Kịch bản Cải Lương là sự sắp xếp hợp lý các hành động kịch mang cảm xúc bi và hài xen tạo tiếng cười trong các vai hài, diễn viên có hai thủ pháp cơ bản. Một là diễn ngoại hình có tính cách điệu, gây cười. Hai là diễn tả bằng ngôn ngữ mô tả động tác, kết hợp với ngôn ngữ văn học, là những tiếng cười có ý nghĩa xã Tính trữ tìnhTính trữ tình của nghệ thuật Cải Lương thể hiện qua nội dung tác phẩm thường đậm tính văn học kịch. Nội dung văn học kịch sân khấu Cải Lương phong phú về đề tài, phổ biến là các câu chuyện kể dân gian, truyền thuyết, lịch sử,… hoặc có thể là những câu chuyện cổ có nội dung xã hội, gắn liền với đời sống tinh thần của con người. Văn học kịch Cải Lương phản ánh hiện thực xã hội từ cổ xưa đến đương đại và tất nhiên không thể thiếu những câu chuyện về tình thân, tình yêu, tình bạn,… được sử dụng như chất liệu chính. Vì vậy, chất trữ tình của Cải Lương thường được thể hiện qua cốt truyện. SÂN KHẤU VÀ ĐẠO CỤKhác với sân khấu hát bội mang tính hình thức, không gian và thời gian của vở tuồng được khán giả hình dung qua lời thoại và điệu bộ của người diễn viên. Cải Lương thiên về tả thực, vì lẽ đó sân khấu là sự tái hiện cảnh thật, thiết kế sân khấu và đạo cụ mang ý nghĩa của cái đẹp thật trong chiều kích thẩm mỹ nghệ thiết kế sân khấu Cải Lương thường phân thành hai công đoạn thứ nhất vẽ phông màn, thứ hai là bài trí sân khấu. Hai công đoạn này đều phải tuân thủ nguyên tắc tả thực của sân khấu. Nếu là một gian phòng thì có cửa ra vào, cửa sổ đóng mở được, có giường bàn tủ như thật. Nếu là núi rừng thì có cây cối đất đá. Nếu là đêm trăng thì có ánh trăng trên trời, vì sao lấp lánh, mây bay lơ hiện căn phòng trên sân khấu cải lương Ảnh với đạo cụ trên sân khấu, hát bội hoàn toàn mang tính chất ước lệ. Trong các vở hát bội, nhân vật đi đường trường thường dùng ngựa, nhưng sẽ không có con ngựa nào được đưa lên sân khấu, mà chỉ có chiếc roi ngựa do người diễn viên cầm trong tay, vừa tượng trưng cho con ngựa, vừa tượng trưng cho việc đi ngựa. Đạo cụ của sân khấu Cải Lương mang tính hiện thực, nhằm tái hiện sinh động những cảnh vật thật, những con người thật. Có thể nói, cách thiết kế sân khấu và đạo cụ của sân khấu Cải Lương nhằm mang đến cho khán giả cảm giác chứng kiến cảnh thật một cách sống động và tinh khấu Cải Lương Ảnh tham khảo1. Nguyễn Thị Trúc Bạch – Đặc tính tổng hợp trong cấu trúc nghệ thuật Cải Lương Nam Bộ – Tạp chí Khoa học Xã hội TP. Hồ Chí Minh2. Nguyễn Thị Thùy 2009 – Nghệ thuật biểu diễn Cải Lương – NXB Sân khấu ÂM NHẠCÂm nhạc Cải Lương chịu ảnh hưởng của hai nền nhạc lớn đã có từ thời cổ và tồn tại đến bây giờ, đó là nền ca hát dân gian và nền nhạc khí dân gian. Hai nền nhạc này tạo cho cải lương một phong cách đặc biệt, do đó trong âm nhạc Cải Lương, yếu tố ca hát và yếu tố nhạc khí cùng thúc đẩy nhau phát triển và tạo ra một hình thức đối lập trong nhiều bè, mở đường cho tính chất sân khấu của Cải Lương. Sân khấu Cải Lương sử dụng cái vốn dân ca nhạc cổ rất phong phú của Nam Bộ. Nó cũng gồm một số điệu ca vốn là nhạc Trung Hoa nhưng đã được Việt Nam hóa. Ngoài trừ bản vọng cổ, dưới đây là một số bài bản được sử dụng khá phổ biến trong các vở Cải Lương1. Ca BắcThường là văn vần, diễn trong tình tiết vui, ca Bắc được dùng để tả cảnh vật, bày tỏ cái chí khí của đấng nam nhi, cái tiết tháo của kẻ sĩ, hoặc nói lên cái chí hướng của mình. Đôi khi ca Bắc cũng dùng tả cảnh sinh ly tử biệt, nhưng đượm vẻ hào hùng. 2. Ca NamCa Nam là giọng buồn thảm nhất trong các điệu Cải Lương. Ca Nam thường dùng văn vần để có thanh bằng trắc, giọng trầm bổng thì ca mới nghe được. Tùy theo mức độ bi ai, điệu ca này chia làm 5 loại– Nam xuân có 8 lớp, mỗi lớp gieo một vần cho cả 8 câu. Giọng Nam xuân buồn nhẹ, dịu hòa.– Nam ai gồm 14 lớp, mỗi lớp có 8 câu và gieo một vần, ca nhịp lơi nên giọng buồn thảm thê lương nhất.– Nam bình, còn gọi là Trường tương tư, chữ cuối câu gieo một vần và đều thanh bằng, giọng buồn miên man. Điệu ca này gốc ở miền Trung, mới gia nhập vào Cải Lương khoảng đầu thập niên 1930.– Nam chạy trong Cải Lương cũng giống như Nam tẩu trong trong hát bội, dùng khi bị rượt đuổi, vừa chạy vừa ca nhịp thúc để phù hợp với điệu bộ chạy giặc. Bài Nam chạy cũng gồm nhiều lớp, mỗi lớp có 8 câu, và thường xen nói lối giữa hai lớp.– Nam Đảo ngũ cung là bài Nam gồm 8 lớp, mỗi lớp có tám câu một vần. Và thường mang thanh trắc, nghe chói tai xóc dựng, tạo âm điệu độc đáo trong cổ nhạc Việt Nam XuânĐiệu Nam AiĐiệu Nam Bình3. Ca Bắc biến thể giọng Nam Gồm 3 điệu – Hành vân hơi Nam nguyên Hành vân là bản ca Bắc, được biến thể chuyển qua ca Nam, nhịp lơi và ngân nga, để diễn tả tâm sự buồn của nhân vật. – Chuồn chuồn hơi Nam nguyên Chuồn chuồn là bản ca Bắc, được biến thể chuyển qua ca Nam và vô Vọng cổ khi vai tuồng diễn cảnh gặp cơn hoạn nạn. – Vọng cổ cũng là bản Bắc chuyển sang giọng Nam, nhưng là một điệu ca quan trọng nên có chỗ đứng Nói lốiNói lối trong Cải Lương thường là những câu văn vần, mỗi câu từ 4 đến 9 chữ, có thể dài hơn, đôi khi có văn xuôi, và chia làm ba loại– Lối Bắc, nói chậm từng tiếng, rõ ràng và nghiêm trang, không có đàn đưa hơi. Diễn viên nói lối Bắc xong, thì tiếp đến ca Bắc.– Lối Ai tức lối Nam, nói chậm, giọng buồn não ruột, có đàn đưa hơi qua bản Xuân Nữ; và xong lối Ai thì tiếp đến ca Nam.– Lối dặm, khi diễn viên ca vọng cổ, vừa dứt một câu, đờn nổi lên, trong thời gian chờ diễn viên ca tiếp, nhân vật đối thoại xen vào câu Lối dặm, không nhất thiết là phải văn vần để tránh khoảng trống. Vậy Lối dặm phải gọn, không được dài dòng, làm loãng bài Vọng Nói thường Dùng để xen giữa các câu nói lối, nên diễn viên phát ngôn bình thường, tự nhiên như kịch OánGiọng oán thể hiện nỗi đau khổ buồn giận, nhưng mang tính bi hùng, chứ không ủy mị thê lương. Tuy là vậy, các tính chất trên cũng gia giảm tùy theo từng bài. Có bốn bài oán chính– Tứ Đại Oán trong tuồng Vì Nghĩa Liều Mình,– Giang Nam thích hợp cho những tuồng có nhân vật nữ trong cô phòng, than thân tủi phận,– Phụng Cầu trong tuồng Lưu Kim Đính Giải Giá Thọ Châu,– Phụng Hoàng tính chất oán nhẹ nhàng hơn các bản khác;Và bốn bài oán phụ Văn Thiên Tường ca trong lúc vợ chồng quyến luyến trước cảnh chia ly, Bình Sa Lạc Nhạn, Bộc Thủy Ly Tao, Thanh Dạ Đề đại oánGiang NamPhụng CầuPhụng Hoàng7. Bình Bài Bình bằng thơ lục bát và nói rõ ràng từng câu, từng điệu. Bình cũng gần như Bạch trong hát bội, nhưng Bạch nói lên cái chí hướng của nhân vật, còn Bình tả cái gia cảnh của vai Ngâm Cải Lương và hát bội đều có ngâm, tức là đọc thong thả bài thơ với giọng tha thiết diễn cảm qua âm điệu trầm bổng ngân dài, nhưng không theo khuôn nhịp cố định. Ngâm trong Cải Lương thường là là thể thất ngôn tứ tuyệt, thơ tám chữ bốn câu, cũng có thể dùng lục bát hay song thất lục Nói thơ tức là không ngâm mà chỉ đọc thơ với giọng rõ ràng, thong Thán Điệu thán trong Cải Lương được viết theo thể thơ thất ngôn tứ tuyệt, có đờn đệm đưa hơi, với giọng não nề; chẳng hạn như than khóc người thân lìa Lý Lý là điệu hát ngắn, gọn, tính nhạc phong phú, rất phổ biến trong dân gian. Cải Lương thường dùng các điệu Lý sau đây – Lý giao duyên dành cho đào hát trong lúc cô đơn, khi trông nhớ chồng, con đi xa lâu về. – Lý Ngựa ô căn cứ vào nguồn gốc có hai loại điệu Lý Bắc hát nhanh nhịp 1, điệu Lý Nam hát chậm và nhịp tư lơi. – Lý Huế cũng hát chậm với nhịp tư lơi và giọng dịu dàng. – Lý con sáo tức Lý Tam thất, có hơi ca Nam. – Lý thập tình. – Lý chuồn Ngựa ÔLý Con sáoLý Giao duyên12. Hò Hò là điệu hát dân gian có giọng cất cao, to và dài hơi, đồng ca trong khi làm việc cho quên mệt nhọc, hay để hợp sức cùng làm một việc gì. Trong Cải Lương thường thấy hò cấy lúa, hò chèo ghe, hò đưa đò,…Nguồn tham khảo1. Đào Đức Chương – Sơ lược về hát Cải Lương – Tập San Việt Học2. Đắc Nhẫn 1987 – Tìm hiểu âm nhạc Cải Lương – NXB TP. Hồ Chí Minh3. Phật giáo Bạc Liêu – Đặc điểm của sân khấu Cải Lương BIỂU DIỄN1. Diễn xuấtNgười diễn viên Cải Lương, thường như cần phải hội đủ bốn yếu tố “thanh, sắc, tài, duyên”. “Thanh, sắc” tức là sở hữu một chất giọng hay, người đẹp; “tài, duyên” mang ý nghĩa diễn xuất phải có thu hút được khán giả. Đối với Tuồng, Chèo, hành động của nhân vật được chi phối rất nhiều bởi các thủ pháp ước lệ và cách điệu. Trong khi đó, ở Cải Lương, diễn viên diễn xuất một cách tự nhiên, nhất là khi diễn về đề tài xã hội, diễn viên diễn xuất như kịch nói. Tuy nhiên, khác với kịch nói, diễn viên phải có cử chỉ, điệu bộ uyển chuyển, mềm mại theo lời ca. Song, những điệu bộ này không cường điệu như hát bội. Một đoạn cắt trong vở Cải Lương xã hội “Làm dâu nhà giàu”Trong khi giọng kể của Tuồng mang tính sử thi, nghiêm trang và hào hùng, giọng kể của Chèo thường là ngôn ngữ dân gian xen kẽ bác học, thì giọng kể của Cải Lương mang tính chất thương cảm, mượt mà, giàu tính chất trữ tình. Người nghệ sĩ biểu diễn Cải Lương đã biết xây dựng cho mình một hệ thống kí hiệu của những động tác diễn xuất. Đó là những động tác mô tả nhân vật, thể hiện mọi trạng thái tâm lí, tình cảm của nhân vật, kể cả động tác vũ đạo cá nhân và tập thể – Khi vui Nét mặt hân hoan, hai mắt sáng long lanh, giọng cười giòn giã – Khi buồn Nước mắt rưng rưng, dáng vẻ thẫn thờ – Khi tức giận Lời nói và điệu bộ căng thẳng, động tác vùng vằng – Khi sợ Cúi rạp mình, mắt đảo liên láo, mặt biến sắc, bước đi nhẹ, lấm lét. – Khi ghen ghét Chau mày, nghiến răng, mặt hầm hầm, tay run lên – Khi yêu thương Lời nói âu yếm, cử chỉ nhẹ nhàng, biểu hiện sự quấn quýt2. Vũ đạoTính ước lệ trong vũ đạo Cải Lương thừa hưởng, tiếp thu từ những loại hình nghệ thuật sân khấu khác, chủ yếu nhất là hát Bội. Đặc trưng của hát Bội chính là sự cường điệu hóa trong các động tác vũ đạo. Tuy nhiên, khi đưa vào Cải Lương, các vũ đạo này đã được tiết chế, Cải tiến để các động tác mềm mại, nhẹ nhàng hơn để phù hợp với cái chất trữ tình, lãng mạn của Cải Đoạn cắt nàng hậu Phi Dao tự tử trong vở Cải Lương “Xử án Phi Giao”Nếu như hát Bội có xuất phát điểm mang tính phủ rộng về địa lý khắp cả nước thì Cải Lương lại có xuất phát điểm và phát triển mạnh ở khu vực miền Nam. Các động tác vũ đạo trong hát Bội thì cả Bắc, Trung, Nam đều thống nhất cũng có chút ít khác biệt nhỏ. Tuy nhiên, Cải Lương miền Nam lại chịu ảnh hưởng sâu sắc của vũ đạo trong Tuồng, còn Cải lương miền Bắc lại gần như không chú trọng vũ đạo vì hiếm khi diễn tuồng cổ, phần lớn chỉ diễn các tuồng cách mạng nên các động tác ước lệ, cường điệu không được sử dụng nay với sự phát triển mạnh mẽ về kỹ thuật dàn dựng, âm thanh, ánh sáng sân khấu, cho phép vũ đạo của Cải Lương được thỏa sức sáng tạo. Một trong những đổi mới dễ dàng nhìn thấy nhất chính là Cải Lương đã kết hợp những bài múa minh họa mang hơi hướng tân thời hơn. Tuy nhiên, điều này đã gây ra một số tranh ưu điểm, việc kết hợp những bài múa minh họa mang tính tân thời sẽ khiến sân khấu bớt trống hơn, những phân cảnh cần sự hoành tráng, đông đúc, lộng lẫy cũng sẽ dễ dàng tạo hiệu ứng tốt hơn khi có các vũ đoàn xung quanh. Nhưng nhược điểm là nếu bài múa được biên đạo không phù hợp với nội dung, tâm lý nhân vật cũng như không khí sân khấu sẽ dẫn đến sự gượng ép, làm giảm sức hấp dẫn của màn biểu diễn. Bởi phần lớn khán giả đến với Cải Lương vì muốn nghe hát, nghe cách xử lý nhấn nhá của giọng ca, vì thế, vũ đạo chỉ nên được sử dụng như một yếu tố phụ, đặc biệt là vũ đạo tân tham khảo1. Quân Nguyễn – Vũ đạo trong nghệ thuật sân khấu Cải Lương – Nguyễn Thị Trúc Bạch – Đặc tính tổng hợp trong cấu trúc nghệ thuật Cải Lương Nam Bộ – Tạp chí Khoa học Xã hội TP. Hồ Chí Minh3. Nguyễn Thị Thùy 2009 – Nghệ thuật biểu diễn Cải Lương – NXB Sân khấu TRANG PHỤCTrong các vở về đề tài xã hội, diễn viên ăn mặc như nhân vật ngoài đời. Diễn viên thường mặc những trang phục truyền thống tùy vào bối cảnh của vở đó áo dài, áo bà ba,…. Trong các vở diễn về đề tài lịch sử dân tộc, về các truyện cũ của Trung Quốc, phóng tác từ những câu chuyện, hay các vở kịch từ nước ngoài thì y phục của diễn viên cũng được chọn lựa để gợi ra xuất xứ của cốt truyện và của nhân vật, nhưng cũng chỉ mang tính ước lệ chứ chưa đúng với hiện đặc thù riêng của sân khấu cải lương là các vở diễn thường về đêm, nên người nghệ sĩ khi lên sân khấu phải rất lộng lẫy từ điểm trang đến xiêm y, đặc biệt là các vai vua chúa, cung tần phi tử. Do đó, phục trang phải kết rất nhiều cườm, kim sa, châu ngọc, lông vũ nhằm thu hút ánh nhìn của khán giả. NS Bảo Ly đã tâm sự muốn có bộ trang phục đẹp, người thợ phải có sự phối hợp giữa nhiều yếu tố. Quan trọng nhất là phải giữ được tính đặc trưng, tránh bị nhầm lẫn giữa Cải Lương, hát Hồ Quảng hay hát bội. “Chẳng hạn, mão cửu long của vua Việt Nam có thêu chín con rồng, còn mão vua của Trung Hoa thì có chi tiết chín xâu chuỗi ngọc treo rủ trên đỉnh mão. Hay áo của quan văn Việt Nam thì ống tay nhỏ, có bâu cổ đứng, còn ở Trung Hoa, áo của quan văn có ống tay rộng và không có bâu cổ.” Trang phục hoàng hậu trong vở “Xử án Phi Giao” Ảnh Tiền PhongTrang phục của Kim Trọng – Thúy Kiều trong vở “Kim Vân Kiều”Nguồn tham khảo1. Đặc tính thẩm mỹ của nghệ thuật Cải Lương Nam Bộ 2. Trúc Phương 2019 – Những người may áo “giữ hồn” Cải Lương– Báo Pháp luật TPHCM DÀN NHẠC CẢI LƯƠNGMột đoàn Cải Lương không chỉ có các diễn viên diễn xuất trên sân khấu, mà luôn luôn phải có dàn nhạc đi kèm. Vì thế, khi trình bày về âm nhạc trong nghệ thuật Cải Lương, chúng ta phải nhắc tới dàn nhạc. Dàn nhạc Cải Lương có một vai trò đặc biệt không có dàn nhạc thì không thể thành một tuồng diễn. Dàn nhạc trong Cải Lương không chỉ có nhiệm vụ nâng đỡ, phụ họa cho giọng hát, mà còn tô điểm thêm cho từng giai điệu để làm nổi bật chiều sâu tâm lý của nhân vật, tạo thêm kịch tính cho kịch bản, góp phần cho sự thành công của tuồng dàn nhạc Cải Lương Ảnh Báo Mới1. Dàn nhạc cổDàn nhạc cổ luôn giữ vai trò chủ chốt và được cho là linh hồn của tuồng Cải Lương. Dàn nhạc cổ cũng mang đậm nét truyền thống và góp phần giữ gìn bản sắc dân tộc trong nghệ thuật Cải Lương. Một số nhạc cụ hay dùng trong dàn nhạc cổ Cải Lương bao gồmĐàn kìm đàn nguyệt có 2 dây tơ, 8 phím. Nghệ nhân đàn kìm thường ngồi trông ngay ra sân khấu, giữ nhịp song lang và là người điều khiển dàn nhạc. Đàn kìm hòa cùng đàn tranh tạo âm hưởng rất hay. Tùy theo làn hơi cao hay thấp của người diễn viên, đàn kìm có thể đàn 5 dây loan Song Loan hay còn gọi là Song Lang. Là một nhạc cụ gõ, có hình dáng đơn giản và nhỏ bé nhất trong các loại nhạc cụ xưa. Song loan khi gõ lên tạo tiếng “Cách!” hoặc “Cốp!” thanh thuý, vừa cao, vừa vang xa rõ ràng một cách tự nhiên, nên được dùng để bắt nhịp, giữ nhịp và báo hiệu kết thúc giai điệu. Nói cho vui thì Song Loan giống như 1 cái metronome Á Đông vậy. Chính vì giữ vai trò giữ nhịp nên tuy nhỏ bé những không thể thiếu và đòi hỏi người giữ Song Loan phải toàn tâm toàn ý cho màn trình diễn. Trước năm 1975, thầy chơi đàn Nguyệt sẽ đánh song loan, sau 1975, nhạc công chính – thầy chơi guitar lõm lại thường được giao trọng trách tranh đàn thập lục có 16 dây kim khí với 3 khoảng âm thượng, trung, hạ và tiếng song thinh đánh hợp âm 2 nốt cách nhau một quãng tám nghe êm dịu. Âm sắc Đàn Tranh trong trẻo, sáng sủa thể hiện tốt các điệu nhạc vui tươi, trong sáng. Đàn Tranh ít thích hợp với những tính cách trầm hùng, khoẻ mạnh. Tầm âm Đàn Tranh rộng 3 quãng 8, từ Đô lên Đô cò đàn nhị loại đàn dây kéo, có 2 dây tơ và một vĩ kéo, thường được ví với violin của phương Tây. Âm vực khoảng 3 quãng tám. Âm lượng có thể điều chỉnh bằng cách dùng đầu gối bịt một phần ở miệng bát nhị khi ngồi ghế cao hay dùng ngón cái bàn chân tác động lên đầu bịt da rắn của bát nhị khi ngồi dưới chiếu. Âm sắc có tính linh hoạt để lột tả nhiều tâm trạng, và mượt mà như một chất keo kết dính cho cả dàn sến đàn gảy, có 2 dây tơ, ít nhấn; dùng riêng cho dàn nhạc Cải Lương. Âm thanh trong trẻo, tươi sáng gần giống đàn Nguyệt nhưng ít vang hoặc tiêu sử dụng trong Cải Lương với một bậc củn quản dùng trong Cải Lương hát giọng Hồ Dàn nhạc tân Dàn nhạc tân tuy chỉ đóng vai phụ, nhưng cũng rất tích cực, đồng thời cũng rất đa dạng về nhạc cụ. Như phần trên đã trình bày, ngay từ lúc Cải Lương được hình thành, thì đã có sự góp mặt của dàn nhạc tân, quá trình phát triển của dàn nhạc tân được chia thành ba giai giai đoạn đầu, dàn nhạc tân không tham gia vở diễn mà chỉ đóng vai trò như một tiết mục quảng cáo, tức là biểu diễn trước lúc tuồng Cải Lương được bắt đầu; hoặc chỉ được sử dụng khi chuyển màn, chuyển cảnh… Trong giai đoạn này, cấu trúc của dàn nhạc tân chỉ có bộ hơi các loại kèn đồng kèm với một dàn trống giai đoạn thứ hai, khi nghệ thuật Cải Lương dung nạp thêm một số bài tân nhạc, thì dàn nhạc tân cũng bắt đầu được tham gia vở diễn. Nhưng sự tham gia này còn rất hạn chế, chỉ đệm cho diễn viên hát những đoạn tân nhạc. Đến lúc này thì dàn nhạc tân có thêm hai cây guitar solo và guitar giai đoạn thứ ba thì dàn nhạc tân coi như có vai trò ngang hàng với dàn nhạc cổ trong vở diễn. Ngoài chức năng đệm cho tân nhạc, dàn nhạc tân còn phụ họa, điểm xuyết cho những vai diễn. Lúc này, dàn nhạc tân dung nạp thêm cây piano và cây tham khảo 1. Quân Nguyễn – Dàn khí nhạc trong Cải Lương2. Trần Lê Túy-Phượng – NHẠC CỤ CỔ TRUYỀN VN – SONG LOAN/SONG LANG3. Đỗ Dũng – Vì sao gọi Song Loan là “TỔ” ?4. Trần Lê Túy-Phượng – NHẠC CỤ CỔ TRUYỀN VN – ĐÀN TRANH/THẬP LỤC5. Quân Nguyễn – Đàn nhị – đàn cò, xứng danh violin của phương nam6. Võ Thanh Tùng – àn Sến
Thuyết minh về cải lương – Bài số 1 Người Kinh Bắc tự hào khi nhắc đến dân ca quan họ. Người xứ Huế lại tự hào về những câu Nam ai, Nam bình, những điệu hò mái nhì, mái đẩy man mác. Ngưòi dân Nam bộ cũng hãnh diện khi nói về những câu cải lương mùi mẫn làm say lòng người. Cải lương là một làn điệu đặc trưng của mảnh đất phương Nam. Hay nói cách khác miền Nam của nước Việt Nam là nơi phát xuất cải lương. Con người miền Nam có một đời sống nhàn hạ, sung túc. Ruộng cò bay thắng cánh. Cá đầy sông, rạch. Không lo đói nhờ đất đai phì nhiêu, rau và lúa gạo đầy đồng. Người miền Nam mang dòng máu của những dân đến sinh sống trẽn đất Nam kỳ đầu tiên. Dân ca miền Nam phối hợp nhừng đặc trưng của dân ca miền Bắc, miền Trung, thêm vào đó những sắc thái cổ truyền của nhạc Cao Miên, Trung Hoa, Chàm. Do đó, dân ca rất phong phú về giai điệu cũng như tiết tấu qua những điệu lý, điệu hò, nói thơ. Cải lương đầu thế kỉ XX, làm phong phú thêm cho những làn điệu dân ca đất phương Nam. Cùng vói sự ra đời của tiểu thuyết, kịch nói, thơ mới… sự ra đời Cải lương được xem như là sản phẩm mang tính tất yếu của lịch sử. Nó hình thành từ sự tiếp xúc giữa nền văn hóa nông nghiệp lúa nuớc và nền văn hóa công nghiệp phương Tây. Nếu như kịch nói có lịch sử lâu đời và nguồn gốc từ phương Tây, chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của nền văn hóa, của quan điểm thẩm mỹ phương Tây thì sự ra đời của Cải lương có nguồn gốc từ nghệ thuật truyền thống dân tộc và sự du nhập lối biên kịch châu Âu. Yếu tố đầu tiên mang tính cội nguồn của nghệ thuật cải lương là âm nhạc tài tử Nam bộ. Thời ấy, tuồng Hát bội không còn giữ vị trí độc tôn trong thưởng thức nghệ thuật trình diễn của đồng bào miền Nam, nên từ các vùng nông thôn bắt đầu phong trào đờn ca tài tử phục vụ trong các cuộc vui như lễ cưới, lễ hỏi, đám tiệc, đám giỗ… Theo một số nhà nghiên cứu, tiền thân của cải lương là nhạc tài tử biến thành "ca ra bộ" tại nhà Ông Cai tổng Tống Hừu Định Ồng Phó 12 tại Vĩnh Long năm 1917. Khi ca bài Tứ đại oán với tích Bùi Kiệm thi rớt trở về, cô Ba Định, vai Nguyệt Nga, ông giáo Diệp Minh Kỷ đóng vai Bùi Kiệm, ông Giáo Du, vai Bùi ông, vừa ca vừa ra bộ. Và từ đó đã sinh ra loại "Ca ra bộ". Sự khởi đầu của hình thức này được đánh dấu tại cuộc trình diễn của nhóm ca nhạc tài tử trên sân khấu hộp trong đó có cô Ba Đắc tại Hội chợ thuộc địa tại Pháp. Sau này ca ra bộ phát triển như một trào lưu tại Nam bộ. Tiết mục được trình diễn rất thô sơ trên một bộ ván gõ, diễn viên vừa ca, vừa diễn với điệu bộ, động tác minh họa. Ca ra bộ chính là gạch nối giừa hình thái âm nhạc và hình thái sân khấu. Sau này trở thành Hát cải lương. Sau đó nhờ những soạn giả như ông Trương Duy Toản, Mộc quán Nguyền Trọng Quyền,.. viết lại từng mảng các chuyện tích xưa để diễn ca ra bộ, với hình thức đối ca, liên ca rồi kết hợp lại thành những vở tuông Cải lương đâu tiên như Lục Vân Tiên, Kim Vân Kiều… Cải lương hình thành và phát triên rât mau nhờ những đóng góp của những bậc tài danh như Năm Phỉ, Năm Châu, Trần Hữu Trang, Tư Chơi, Năm Nở, Phùng Há… Bước đầu hình thành, Cải lương giống như tên gọi cùng chịu ảnh hưởng đủ thứ nghệ thuật đầu Ngô mình Sơ. Tình trạng hỗn độn trong trang phục, hay phong cách diễn vẫn thường xảy ra; chẳng hạn diễn viên đóng Lừ Bố mang giày bốt, đóng Điêu Thuyền mặc áo dài, cột dây ngang lưng, đầu thắt bánh lái, cũng hát đủ kiểu tích Tàu, chuyện Tây. Tuy nhiên, những gì phi nghệ thuật làm mât bản săc dân tộc dần dần bị đào thải. Nhờ các tác giả cỏ tri thức, có tài năng mà sân khâu cải lương hình thành hai dòng tuồng Tàu và tuồng Tây mà sau này các nhà nghiên cứu sân khấu khẳng định là Cải lương có hai phương pháp phương pháp hiện thực tâm lý và phương pháp biểu hiện tả ý. Trong bối cảnh văn hóa Việt Nam đầu thế kỷ, nếu nói hát bội là loại hình nghệ thuật cũ, kịch nói là loại hình nghệ thuật mới thì Cải lương lại đứng giữa cái cũ và cái mới. Tính dân tộc qua phương pháp biểu hiện tả ý và tính hiện đại qua phương pháp tả thực tâm lý. Sân khấu Cải lương vừa dân tộc vừa hiện đại là đo kêt hợp một cách tài tình hai phương pháp hiện thực tâm lý và biểu hiện tả ý đó. Về đề tài kịch bản không phải chỉ lấy trong lịch sử Trung Quốc hay Việt Nam, mà còn lấy trong các tiểu thuyết hay những cốt truyện do tác giả kịch bản đặt ra về nghệ thuật biểu diễn Thật mà đẹp. Không còn ước lệ như trong hát bội, Dùng giọng thật, tự nhiên. Không có những giọng mé, giọng hầu Ban nhạc tài tử lúc hòa tâu ở phòng khách đàn hát sa-lông thường gồm có đàn kìm, đàn tranh, đàn cò, đàn độc huyền, sáo hay tiêu, mỗi thứ nhạc cụ chỉ có một. Có người hát thì thêm phách hay song lang. Khi trở thành dàn nhạc cải lương thì số lượng nhạc cụ trở thành quan trọng hơn trống ban, song lang, cặp não bạt, đồng la, đàn cò, đàn gáo, đàn kìm. đàn tam, đàn đoản, đàn tranh. Lại có thêm sáo, tiêu, kèn củn, kèn nàm. Sau này có thêm đàn độc huyền, đàn xến, ghi ta phím lõm còn gọi là lục huyên cầm, tam thập lục, vi-ô-lông, hạ uy cầm. Cây lục huyền câm hay ghi-ta phím lõm có nhiều khả năng về cung bực, âm thanh trâm bông lại có thẻ luyến láy do phím móc sâu. Từ 40 năm nay, ghi-ta phím lõm giữ vai trò chính trong dàn nhạc cải lương, và sau này đàn ghi ta phím lõm có gản điện giống ghi-ta điện. Ngoài dàn nhạc cổ, còn có thêm dàn nhạc Tây phương với piano, saxo, clarinette, trống, ghi-ta điện, và đàn synthé hay organ. Những bài, bản được nghe trong tuồng cải lương đều phát xuất từ dàn ca cổ nhạc miền Nam phần lớn, và những làn điệu trong nhạc đàn tài tử. Một loại nhạc thính phòng miền Nam. Có thể phân loại một số bài bản thông dụng như Từ những điệu ca dân gian như những điệu Lý chẳng hạn từ điệu Lý ngựa ô biến thành điệu cải lương 0 Mã 18 câu nhịp đôi. Từ những bài nhạc lễ cung đình trong hát bội sau được cải biên dùng trong cải lương như Vũ Biền Xuất Đôi, Nam Xuân, Nam Ai, Nam Đảo, Ngũ Đối Thượng, Ngũ Đối Hạ, Long Đăng, Tiểu Khúc,… Từ nhừng sáng tác mới sau này khi có ca ra bộ, hát cải lương như Văn Thiên Tường, Tứ Đại Oán, Trường Tương Tư, Lun Thủy Trường, Ái Tử Kê, Vọng cổ,… Từ những điệu hát lấy từ nhạc nước ngoài nhất là từ Trung Quốc, nhạc Quảng Đông xuỵên qua các bài Xang Xừ Líu, Khốc Hoàng Thiên, Liều Xuân Nương, Bản Tiều, Lạc Âm Thiều,… Đã nói đến sân khấu Cải lương, không thể nào không nói đến bản nhạc "đinh" trong các vở. Đó là bản vọng cổ. Có người cường điệu "không có bản vọng cố không thể trờ thành một đêm hát cải lương…" Lời khẳng định trên có phần hơi quá, nhưng nghĩ kỳ lại cũng không sai. Tính hấp dẫn của một đêm diễn Cải lương không thể không nói tới sức thu hút kỳ diệu của bản vọng cổ. Được biết vào năm 1918 ông Cao Văn Lầu đã sáng tác bản Dạ cô hoài lang, sau này trở thành bàn vọng cố. Dạ cổ hoài lang tiền thân của bản vọng cổ đã tạo ra một khône khí mới cho nền ca nhạc cổ miền Nam. Từ đó trở đi, bất kì trong một vở Cải lương nào, bản vọng cổ vẫn là bản nhạc chủ đạo, thể hiện một cách đa dạng qua tất cả tình huống, trong một vở Cải lương. Nhìn lại nghệ thuật sân khấu Cải lương, chúng ta không thể nào quên những nghệ sĩ lào thành có mặt từ đầu bộ môn nghệ thuật này, như kép Bảy Thông, đào Năm Thoàn trong gánh Cải Lương của thầy Năm Tú ở tại Mỹ Tho, như Năm Châu, Phùng Há, Năm Phỉ, Bảy Nam, Bảy Nhiêu, Ba Vân, út Trà Ôn. Nhừng người nghệ sĩ này đã truyền nghề cho một thế hệ không kém nổi tiếng mà ngày nay không ai là không biết đến như nghệ sĩ ưu tú Kim Cương, nshệ sĩ Duy Lân, nghệ sĩ Thành Được, nghệ sĩ út Bạch Lan, nghệ sĩ Hửu Phước, nghệ sĩ nhân dân Thanh Tòng, nghệ sĩ Việt Hùng… Sau nữa còn có nghệ sĩ Hùng Cường, nghệ sĩ ưu tú Bạch Tuyết, nghệ sĩ Thanh Sang, nghệ sĩ ưu tú Ngọc Giàu, nghệ sĩ ưu tú Lệ Thuỷ, nghệ sĩ Mộng Tuyền, nghẹ sĩ Đồ Quyên, nghệ sĩ Hoài Thanh… Và tiếp theo sau là thế hệ mới. Ngày nay neười ta không thể quên có một Hương Lan con gái nghệ sĩ Hữu Phước, Vũ Linh, Tài Linh, Ngọc Huyền, Kim Tử Long… Bây giờ đã có Quế Trân con gái nghệ sĩ Thanh Tòng, Thi Trang, Lê Tử… trong số nghệ sĩ lão thành và trẻ tuổi không thể kể hết. Ngày nay người ta vẫn yêu mến bộ môn này bởi vì bên cạnh những sân khấu kịch nghệ, sân khấu ca nhạc trẻ, sân khấu nghệ thuật Cải lương đã luôn định hình trong lòng khán giả và còn tiếp tục đi tới trong việc bảo tồn, lun giữ. Trong mấy năm sau này, những nghệ sĩ như Thanh Tòng, út Bạch Lan, Bạch Tuyết… có tổ chức những đêm Cải lương diễn lại trích đoạn của nhiều tuồng đã được khán giả yêu chuộng và đã thu hút rất nhiều khán giả hâm mộ Cải lương. Những chương trình truyền hình như Cánh chim không mỏi, Vầng trăng cổ nhạc được đông đảo khản giả theo dõi. Hai đài truyền hình HTV7 và HTV9 thường xuyên phát sóng nhiều vở tuồng Cải lương mới, cũ. Có dịp ra nước ngoài, người ta vẫn nghe tiếng hát của các nghệ sĩ trẻ Việt kiều hát Cải lương hoặc bà con ở hải ngoại sẵn sàng bỏ một buổi làm việc đẻ mua được tại phòng vé một chồ xem trình diễn "Cải lương" mà nghệ sĩ từ Việt Nam qua biểu diễn. Đặc biệt ở Pháp và ở Mỹ, Cải lương rất thịnh hành. Nhiều nghệ sĩ Cải lương tại hai nước đó, chẳng những diễn lại những vở tuồng xưa mà gần đây đã dàn dựng những vở mới. Như thế, Cải lương quả đã được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Cải lương cũng đã được thay đổi qua nhiều thế hệ, chịu thử thách với thời gian, với nhiều thử nghiệm. Tuy sinh sau đẻ muộn, so với hát chèo, hát bội hát tuồng, hát cải lương trong một thời gian ngắn đã đi một bước rất dài, đi sâu vào trong lòng người dân Nam bộ nói riêng, người Việt Nam nói chung và đã trở thành một truyền thống vững chắc trong kịch nghệ Việt Nam. Thuyết minh về cải lương – Bài số 2 Nói đến ca kịch dân tộc, người Việt Nam chúng ta có quyền hết sức tự hào. Chúng ta có hát bội tuồng, chèo, cải lương, dân ca kịch Khu Năm, dân ca kịch Trị Thiên Huế, và một số dân ca kịch địa phương. Chúng ta tự hào vì nền ca kịch của dân tộc ta có truyền thống, phong phú và đa dạng. Điều đó chứng tỏ khả năng thẩm mỹ và yêu cầu thẩm mỹ của nhân dân ta rất cao. Sân khấu cải lương là một ca kịch dân tộc. Nói đến ca kịch, trước hết phải đề cập đến âm nhạc, vì âm nhạc là xương sống, là linh hồn của kịch chủng. Mở đường vào Nam, bên cạnh gươm giáo búa rìu – những dụng cụ để chiến đấu và sản xuất – tổ tiên chúng ta còn mang theo một nền văn hóa, trong đó có một vốn nhạc phong phú bao gồm nhạc lễ còn gọi là nhạc tụng đình, nhạc đồng bóng, nhạc nhà chùa và nhạc hát bội; đây là chưa kể vốn nhạc dân gian dân ca truyền khẩu sẵn có trong nhân dân. Nền nhạc cổ của dân tộc ta có từ rất lâu đời. Lúc còn ở miền Bắc, Trung, cũng đã phát triển khá cao, có dàn nhạc, có ghi chép hẳn hòi chớ không phải ở mức làn điệu truyền khẩu. Bọn phong kiến dùng nền nhạc cổ này làm của riêng phục vụ chúng trong sinh hoạt vui chơi tế lễ và cúng bái. Vào Nam, nhạc lễ thường dùng trong các cuộc tế lễ, cúng đình, tế thần, và trong các đám ma chay. Tổ chức dàn nhạc lễ gồm bộ kéo, bộ gõ, bộ thổi. Vào Nam, xa triều đình, gần với quần chúng nhân dân, trong một sinh hoạt mới, đất mới, đối tượng mới, dòng nhạc lễ lần lần thay đổi chất và có điều kiện phát triển. Sự thay đổi chất này rất phù hợp với quy luật từ đối tượng trước kia là thần linh, chuyển sang đối tượng mới là quần chúng lao động, lần lần tự dòng nhạc lễ phải thay đổi chất; từ tính chất tế lễ, trang nghiêm chung chung, nhạc lễ chuyển chất mới và phát triển để phục vụ đối tượng mới. Sự thay đổi chất và phát triển đó biểu hiện như thế nào? Trong các đám cúng tế, ma chay kéo dài, quần chúng cần một kiểu sinh hoạt âm nhạc khác, ngoài nhạc lễ. Nhất là trong các đám ma chay kéo dài, gia chủ và người trong nhà cần cái gì khác, ngoài dàn nhạc lễ tấu lên ầm ĩ khi cúng bái. Do yêu cầu đó, nên sinh ra hình thức chơi đàn cây, nghĩa là cũng tấu những bài nhạc lễ, nhưng không dùng bộ gõ trống, thanh la, mõ, chập chỏa … và thổi kèn …, mà chỉ dùng bộ kéo cò, gáo … và bộ khảy kìm, sến, tranh … Sinh hoạt âm nhạc này chơi đàn cây được nhiều người ưa thích. Các tầng lớp nhân dân đều có tham gia. Người ta học đàn, học làn điệu, bài bản. Một số trí thức nho học, nhiều chiến sĩ bị an trí sau khi phong trào "Đông kinh nghĩa thục" thất bại, đã tham gia sinh hoạt âm nhạc này; ngoài những bài bản nhạc lễ sẵn có, họ sáng tác thêm bài bản làn điệu; nhưng quan trọng hơn cả, là họ đã sáng tác lời ca theo nhạc để diễn đạt và phản ánh được phần nào những tâm tư và ước vọng của quần chúng, cũng như tâm tư và ước vọng của chính tác giả. Tóm lại, sự thay đổi chất của dòng nhạc lễ là một sự chuyển biến rất hợp quy luật Văn nghệ phải phục vụ yêu cầu thẩm mỹ của đông đảo quần chúng lao động. Sự thay đổi chất biểu hiện rất rõ nét ở ba điểm thay đổi tổ chức dàn nhạc chỉ dùng bộ kéo và bộ khảy, sáng tác thêm bài bản mới, và sáng tác lời ca đưa yếu tố thanh nhạc cộng với khí nhạc. Bộ dây kéo và khảy, tách ra khỏi tổ chức của dàn nhạc lễ, qui mô nhỏ, phục vụ sinh hoạt tinh thần của quần chúng; dần dần mất hẳn mùi lễ bái và đi vào đời sống thiết thực cưới gả, tiệc tùng, đờn ca trong nhà hàng, đờn ca trong những đêm trăng sau những ngày lao động mệt nhọc. Phong trào phát triển ngày càng rộng, quần chúng tham gia ngày càng đông; nhất là sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất, phong trào đờn ca phát triển rất mạnh ở các tỉnh Mỹ Tho, Vĩnh Long, Sa Đéc, Cần Thơ, Bạc Liêu, Sài Gòn. Kỹ thuật diễn tấu, ca hát ngày càng điêu luyện. Danh từ "nhạc tài tử " ra đời. Nhạc tài tử tách ra khỏi nhạc lễ và từ đấy hai dòng nhạc song song tồn tại nhạc lễ chuyên về cúng tế, nên ngày càng héo hon già cỗi; nhạc tài tử đi vào quần chúng nhân dân, nên không ngừng được sáng tạo và bồi bổ. Từ nhạc tài tử cho đến khi chuyển thành hình thức "ca ra bộ", rồi nhảy lên sân khấu cải lương, qua một quá trình khá dài, dòng nhạc này, ngoài việc sử dụng một số bài nhạc lễ, đã phát triển nhờ ba nguồn chủ yếu – Một sử dụng, phối nhạc và nâng cao một số bài dân ca Nam Bộ như "Lý con sáo – Lý ngựa ô – Lý chuồn chuồn – Lý giao duyên …" – Hai sử dụng và cải biên một số bài nhạc cổ Trung Bộ như "Kim tiền Huế – Hành vân Huế …" – Ba sáng tác mới trên cơ sở âm điệu dân tộc. Loại này khá nhiều, như "Tây thi – Xuân tình – Ái tử kê – Phụng cầu – Văn thiên tường – Bình sa lạc nhạn – Dạ cổ hoài lang về sau là Vọng cổ…". Nội dung tình cảm của dòng nhạc này khá phong phú Loại giọng Bắc, với nhạc điệu vui tươi, thoải mái; loại giọng Oán có tính chất bi ai, buồn thảm; loại giọng Nam, có tính chất buồn man mác, nhẹ nhàng, không bi thảm. Có người phân biệt loại bài lớn trang nghiêm, trầm hùng và loại bài nhỏ vui tươi, nhí nhảnh. Từ khi nghệ thuật sân khấu cải lương được hình thành thì thuật ngữ "nhạc cải lương" mới ra đời. Vào sân khấu cải lương, do sự biến đổi của nội dung của các vở tuồng qua các thời kỳ, do quy luật chặt chẽ của nghệ thuật sân khấu nên nhạc tài tử phải sân khấu hóa" bài bản cắt xén hoặc thay đổi ít nhiều hình thức cấu trúc, tiết tấu được co giãn cho phù hợp với tiết tấu diễn xuất. Các nghệ sĩ ngày trước, dù không hoàn toàn tự giác, nhưng đã làm đúng theo quy luật nội dung thay đổi, hình thức tất nhiên phải thay đổi. Nhìn chung, qua một quá trình dài, chúng ta thấy nhạc cải lương có thay đổi và phát triển. Trong sự phát triển đó, có cái đúng và có cái sai. Có thể tóm tắt như sau – Một là, các nghệ sĩ đã dựa trên âm điệu dân tộc, sáng tác thêm rất nhiều bài mới, phục vụ tốt cho nội dung vở tuồng, phù hợp với kịch tính sân khấu, khắc họa được tính cách nhân vật. Đây là cách làm tốt và đúng. – Hai là các nghệ sĩ đã "Việt Nam hóa" một số bài Quảng Đông, mà âm điệu gần gũi với ta. Đây cũng là một cách làm đúng; quy luật này cũng như quy luật phát triển của ngôn ngữ Việt Nam hóa một số từ của nước ngoài như xà bông, ô-tô, nhà ga … . Người xưa cũng có nêu một nguyên tắc "Đứng trong truyền thống, tiếp thu bên ngoài, tìm cái tương đồng, lấy cái sở trường, bỏ cái sở đoản, làm giàu bài bản, lập thành lưu phái". – Ba là, lấy nguyên xi nhạc nước ngoài, bất chấp âm điệu, đặt lời ca, rồi lắp vào sân khấu cải lương. Đây là một cách làm không đúng, làm cho nhạc dân tộc bị lai căng, mất gốc. – Bốn là, về mặt sử dụng nhạc cụ. Các nghệ sĩ đã có công rất lớn trong việc cải tiến nhạc cụ dân tộc và tìm cách sử dụng nhạc cụ Tây phương một cách sáng tạo, làm cho âm sắc của nhạc cụ thêm đẹp và phong phú. Ví dụ năm 1920, thầy giáo Tiên Rạch Giá móc phím cây guitare espangol và cây mandoline để đờn các bản nhạc cải lương – Năm 1925, anh Sáu Tài sử dụng cây violon để đờn nhạc cổ. Theo ông Vương Hồng Sển, thầy Bảy Cảnh ở Sóc Trăng, sử dụng cây violon đầu tiên và thầy Bảy Thông là người đầu tiên sử dụng cây mandoline – Năm 1927, anh Bảy Thạch cho nhập cây guitare hawaienne vào dàn nhạc cải lương, và anh Sáu Hiệu bổ sung cây violoncelle để tăng thêm âm trầm cho dàn nhạc… Điểm lại tình hình phát triển của nhạc cải lương, chúng ta thấy đó là một quá trình kế thừa và phát triển truyền thống âm nhạc dân tộc từ thấp đến cao một cách khá rõ nét từ nội dung bài bản đến tổ chức dàn nhạc cải cách nhạc cụ dân tộc và bổ sung nhạc cụ Tây phương có sáng tạo, đồng thời chứng tỏ một quá trình dài lao động sáng tạo nghệ thuật của nhiều lớp nghệ thuật của nhiều lớp nghệ sĩ, dù rằng trong quá trình phát triển, cũng có một số lệch lạc. Nhìn lại nhạc trong sân khấu cải lương hiện nay, chúng ta thấy – Về bài bản, ngoài những bài bản sẵn có, có những bài bản mới sáng tác thường đệm bằng dàn nhạc mới "JAZZ" chen vào bài Vọng cổ, gọi là "tân cổ giao duyên". Cách làm này không sai, nếu nội dung kịch tính, tâm trạng nhân vật đòi hỏi phải có một điệu nhạc thích hợp và bản thân điệu nhạc đó phải được sáng tác trên cơ sở âm điệu dân tộc. Hiện nay, theo chúng tôi, nhiều bài sáng tác loại này cũng tốt. Nhưng rất tiếc là cũng còn một số bài sáng tác mang âm điệu Tây phương khá đậm nét; một số nhân vật lịch sử mang hia, đội mão, cầm gươm giáo mà ca những bài loại này, đệm bằng saxophone, trompette thì nghe thật không hợp, nếu không muốn nói chướng tai. Lại có trường hợp, nội dung kịch tính, tâm tình nhân vật không đòi hỏi phải có bài sáng tác mới, nhưng vì muốn, hoặc phô trương giọng ca của diễn viên, hoặc gây một "cảm giác lạ", nên cũng ca một bài mới, ở cuối bài giọng ca vút lên cao, dồn dập để rồi "vô Vọng cổ" cho ngọt. Cộng vào đó, lúc "vô Vọng cổ" phựt đèn màu, hoặc sử dụng ánh sáng lập lòe xanh, đỏ, vàng, tím để mua những tràng vỗ tay rẻ tiền – Có đoạn nhân vật "Lục Vân Tiên và Kiều Nguyệt Nga" gặp nhau, dàn nhạc dùng cây guitare espangol nguyên xi, không móc phím chạy một nét nhạc hoàn toàn mô-đéc! Hoặc chuẩn bị mở màn mà hầu như màn nào cũng vậy thì tự nhiên dàn nhạc mới saxophon, trompette, trống Jazz lớn nhỏ, guitare espangol có gắn loa to ré lên, ầm ĩ. Khán giả tưởng rằng mở màn sẽ có cảnh phong ba bão táp,hóa ra chỉ có hai nhân vật ngồi trao đổi một cách bình tĩnh về chuyện đời. Đóng màn cũng vậy. Tệ hơn nữa là trong màn "Bùi Kiệm dê Nguyệt Nga", Nguyệt Nga bỏ trốn, Kiệm đứng khóc hi hi, đóng màn, dàn nhạc Jazz lại trỗi lên ầm ĩ bài "Bác đang cùng chúng cháu hành quân", vừa lạc điệu, vừa chối tai, vừa bực bội! – Về dàn nhạc hiện nay ở hầu hết các đoàn cải lương đều chia thành hai bộ phận; bộ phận cổ gồm kìm, cò, tranh, độc huyền, sến, tam, đoản … Thường thường là bốn, năm nhạc cụ. Bộ phận mới gồm saxophone, clarinette, trompette, trống Jazz lớn nhỏ, … Có đoàn dùng cả piano, accordéon. Việc đưa nhạc cụ Tây phương vào dàn nhạc cải lương, chúng tôi không phản đối, nhưng cần nghiên cứu kỹ âm sắc của nhạc cụ đó có hợp với nhạc dân tộc không? Với vở đề tài lịch sử và vở đề tài hiện đại, có nên rập khuôn dùng nhạc cụ Tây phương để đệm những cao trào không? Quân Trưng Trắc đánh nhau với quân Tàu phong kiến mà đệm bằng dàn nhạc Tây phương chắc chắn là không đúng và không gây hiệu quả bằng trống, chiêng, thanh la, chập chõa. Chúng ta không có ý định lập lại lịch sử nguyên xi – muốn thế cũng không được, mà sân khấu cũng không cần thế – nhưng trong một vở thuộc về thời đại nào, toàn bộ kịch bản văn học, y trang, phông cảnh, âm nhạc… đều phải góp phần thể hiện cho được không khí lịch sử của thời đại ấy. Sân khấu là một tổng thể hoàn chỉnh, kể từ khi mở màn đầu cho đến lúc đóng màn cuối cùng, nhằm nói với khán giả những vấn đề cụ thể trong một thời đại cụ thể. Do đó, toàn bộ các bộ môn tổng hợp trong một vở diễn phải chu tuần vào một mục tiêu chung, góp phần làm cho vở diễn đạt được tính toàn vẹn. Riêng âm nhạc, từng bài bản có nội dung riêng của nó. Cộng với lời ca, toàn bộ thiết kế nhạc bài ca và nhạc đệm của một vở diễn phải phục tùng mục tiêu chung của toàn vở, khắc họa cho được tính cách của nhân vật, diễn đạt cho được tình cảm của nhân vật và nội dung kịch tính, và gợi cho được không khí lịch sử của thời đại mà kịch bản miêu tả. Do đó, toàn bộ thiết kế nhạc phải mang nội dung nhất định, chớ không thể chỉ có tác dụng giải trí và khoe khoang giọng ca của diễn viên. Chính vì từng bài bản có nội dung riêng của nó, nên soạn giả, khi chọn bài bản cho các nhân vật ca, cũng cần nghiên cứu kỹ chỗ nào nên ca bài nào, chớ không nên lúc nào cũng cố nhét Vọng cổ vào, mặc dầu Vọng cổ là một bài rất được quần chúng yêu thích. Khi vì quần chúng yêu thích mà biến bài Vọng cổ thành "vua độc tôn" trong một vở diễn. Làm như vậy, vừa không diễn đạt đúng kịch tính và tâm trạng của nhân vật, vừa làm nghèo nàn yêu cầu thẩm mỹ của quần chúng. Trong một vở diễn, từ màn này sang màn kia – từ mẩu đời này sang mẩu đời khác – tất yếu có một đường dây nối liền. Thủ pháp sân khấu để nối liền … những "mẩu đời" ấy có nhiều. Nhưng khó chấp nhận cách mà hiện nay hầu hết các đoàn đang dùng đóng màn, trỗi một bài nhạc cách mạng với phong cách "xập xình" theo kiểu nhạc Jazz cũ. Nhất là đối với một số bài như "Bác đang cùng chúng cháu hành quân" mà lời và nhạc đã trở thành "máu xương" của "lớp người Trường Sơn" thì càng không thể chấp nhận cho tấu lên sau khi hạ màn "Bùi Kiệm dê Nguyệt Nga"? Về tổ chức dàn nhạc cải lương, một số đoàn Giải phóng đã làm một việc tốt Ngoài những nhạc cụ dân tộc sẵn có, các đoàn đã sử dụng nhạc cụ Tây phương có cải tiến ghita móc phím, violon, violoncelle, đồng thời cải cách một số nhạc cụ đàn đại hồ, đàn tranh to dùng dây tơ, đàn kìm thùng to … làm cho âm sắc của dàn nhạc thêm phong phú, có thể diễn đạt nhiều khía cạnh tình cảm trong một vở diễn. Trong một số vở diễn đề tài hiện đại, ví dụ cảnh ăn chơi trong một bar – dancing ở một thành phố lớn bị tạm chiếm, việc sử dụng một số nhạc cụ của dàn nhạc Jazz cũng không phải là không nên, miễn là có nghiên cứu, chọn lọc. Tóm lại, việc tận dụng những nhạc cụ dân tộc, cải tiến nó, và nếu quả thật cần thiết, phối hợp với một vài nhạc cụ Tây phương thích hợp vẫn là việc làm tốt và đúng. Chúng ta cần hết sức đề cao dàn nhạc dân tộc, làm sao lớp trẻ yêu thích nhạc dân tộc cả nội dung nhạc và hình thức dân tộc của dàn nhạc, loại trừ dần tâm lý "ngồi trước cây piano coi sang trọng hơn ngồi trước cây đàn độc huyền hay ôm một cây đàn kìm "cổ lỗ sĩ". Các đoàn Văn công của ta đã mang dàn nhạc dân tộc đi biểu diễn ở hầu hết các nước trên thế giới. Cây độc huyền, cây đàn tranh … nói chung là nhạc dân tộc có cải tiến đã làm rung động trái tim của hàng triệu triệu người. Đó là kinh nghiệm quý báu mà các Đoàn cải lương nên tham khảo. Tôi là người yêu nhạc cải lương. Vì rất yêu nên tôi mong muốn có một nền nhạc cải lương luôn luôn sáng tạo và phát triển. Phát triển trên cơ sở kế thừa và có phê phán. Không bảo thủ cho rằng vốn nhạc cải lương bây giờ là tuyệt đỉnh, không vội vàng phát triển thô bạo, sáng tạo bừa bãi, chúng tôi xin mạnh dạn phát biểu vài suy nghĩ, mong góp được một phần nhỏ mọn với sân khấu cải lương để phục vụ ngày một tốt hơn, và góp phần xây dựng, nâng cao thẩm mỹ của đông đảo nhân dân lao động. Nguyễn Tuyến tổng hợp
BÀI LÀM Người Kinh Bắc tự hào khi nhắc đến dân ca quan họ. Người xứ Huế lại tự hào về những câu Nam ai, Nam bình, những điệu hò mái nhì, mái đẩy man mác. Người dân Nam Bộ cũng hãnh diện khi nói về những câu cải lương mùi mẫn làm say lòng người. Cải lương là một làn điệu đặc trưng của mảnh đất phương Nam. Hay nói cách khác miền Nam của xứ Việt Nam là nơi phát xuất cải lương. Con người miền Nam có một đời sống nhàn hạ, sung túc. Ruộng cò bay thẳng cánh. Cá đầy sông, rạch. Không lo đói nhờ đất đai phì nhiêu, rau và lúa gạo đầy đồng. Người miền Nam mang dòng máu của những dân đến sinh sống trên đất Nam kì đầu tiên. Dân ca miền Nam phối hợp những đặc trưng của dân ca miền Bắc, miền Trung, thêm vào đó những sắc thái cổ truyền của nhạc Cao Miên, Trung Hoa, Chàm, Do đó, dân ca rất phong phú về giai điệu cũng như tiết tấu qua những điệu lí, điệu hò, nói thơ. Cải lương đầu thế kỉ XX làm phong phú thêm cho những làn điệu dân ca đất phương Nam. Cùng với sự ra đời của tiểu thuyết, kịch nói, thơ mới… sự ra đời cải lương được xem như là sản phẩm mang tính tất yếu của lịch sử, Nó hình thành từ sự tiếp xúc giữa nền văn hóa nông nghiệp lúa nước và nền văn hóa công nghiệp phương Tây. Nếu như kịch nói có lịch sử lâu đời và nguồn gốc từ phương Tây, chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của nền văn hóa, của quan điểm thẩm mĩ phương Tây thì sự ra đời của cải lương có nguồn gốc từ nghệ thuật truyền thống dân tộc và sự du nhập lối biên kịch châu Âu. Yếu tố đầu tiên mang tính cội nguồn của nghệ thuật cải lương là âm nhạc tài tử Nam Bộ. Thời ấy, tuồng hát bội không còn giữ vị trí độc tôn trong thưởng thức nghệ thuật trình diễn của đồng bào miền Nam, nên từ các vùng nông thôn bắt đầu phong trào đờn ca tài tử phục vụ trong các cuộc vui như lễ cưới, lễ hỏi, đám tiệc, đám giỗ… Theo một số nhà nghiên cứu, tiền thân của cải lương là nhạc tài tử biến thành “ca ra bộ” tại nhà Ông Cai tổng Tống Hữu Định Ông Phó 12 tại Vĩnh Long năm 1917. Khi ca bài Tứ đại oán với tích Bùi Kiệm thi rớt trở về, cô Ba Định vai Nguyệt Nga, ông giáo Diệp Minh Ký đóng vai Bùi Kiệm, ông Giáo Du vai Bùi ông, vừa ca vừa ra bộ. Và từ đó đã sinh ra loại “Ca ra bộ”. Sự khởi đầu của hình thức này được đánh dấu tại cuộc trình diễn của nhóm ca nhạc tài tử trên sân khấu hộp trong đó có cô Ba Đắc tại Hội chợ thuộc địa tại Pháp. Sau này ca ra bộ phát triển như một trào lưu tại Nam Bộ. Tiết mục được trình diễn rất thô sơ trên một bộ ván gõ, diễn viên vừa ca, vừa diễn với điệu bộ, động tác minh họa. Ca ra bộ chính là gạch nối giữa hình thái âm nhạc và hình thái sân khấu và sau này trở thành hát cải lương. Sau đó nhờ những soạn giả như ông Trương Duy Toản, Mộc quán Nguyễn Trọng Quyền… viết lại từng mảng các chuyện tích xưa đế diễn ca ra bộ, với hình thức đối ca, liên ca rối kết hợp lại thành những vở tuồng cải lương đầu tiên như Lục Vân Tiên, Kim Vân Kiều… Cải lương hình thành và phát triển rất mau nhờ những đóng góp của những bậc tài danh như Năm Phỉ, Năm Châu, Trần Hữu Trang, Tư Chơi, Năm Nở, Phùng Há… Bước đầu hình thành, cải lương giống như tên gọi cũng chịu ảnh hưởng đủ thứ nghệ thuật đầu Ngô mình Sở. Tình trạng hỗn độn trong trang phục, hay phong cách diễn vân thường xảy ra, chẳng hạn diễn viên đóng Lã Bố mang giày bốt, đóng Điêu Thuyền mặc áo dài, cột dây ngang lưng, đầu thắt bánh lái, cũng hát đủ kiểu tích Tàu, chuyện Tây. Tuy nhiên, những gì phi nghệ thuật làm mất bản sắc dân tộc dần dần bị đào thải. Nhờ các tác giả có tri thức, có tài năng mà sân khấu cải lương hình thành hai dòng tuồng Tàu và tuồng Tây mà sau này các nhà nghiên cứu sân khấu khẳng định là cải lương có hai phương pháp phương pháp hiện thực tâm lý và phương pháp biểu hiện tả ý. Trong bối cảnh văn hóa Việt Nam đầu thế kỉ, nếu nói hát bội là loại hình nghệ thuật cũ, kịch nói là loại hình nghệ thuật mới thì cải lương lại đứng giữa cái cũ và cái mới. Tính dân tộc qua phương pháp biểu hiện tả ý và tính hiện đại qua phương pháp tả thực tâm lý. Sân khấu cải lương vừa dân tộc vừa hiện đại là do kết hợp một cách tài tình hai phương pháp hiện thực tâm lí và biểu hiện tả ý đó. Về đề tài kịch bản không phải chỉ lấy trong lịch sử Trung Quốc hay Việt Nam, mà còn lấy trong các tiểu thuyết hay những cốt truyện do tác giả kịch bản đặt ra. Về nghệ thuật biểu diễn Thật mà đẹp. Không còn ước lệ như trong hát bội. Dùng giọng thật, tự nhiên. Không có những giọng mé, giọng hầu v. v…Ban nhạc tài tử lúc hòa tấu ở phòng khách đàn hát sa-lông thường gồm có đàn kìm, đàn tranh, đàn cò, đàn độc quyền, sáo hay tiêu, mỗi thứ nhạc cụ chỉ có một. Có người hát thì thêm phách hay song lang. Khi trở thành dàn nhạc cải lương thì số lượng nhạc cụ trở thành quan trọng hơn trống ban, song lang, cặp não bạt, đồng la, đàn cò, đàn gáo, đàn kìm, đàn tam, đàn đoản, đàn tranh. Lại có thêm sáo, tiêu, kèn củn, kèn nàm. Sau này có thêm đàn độc huyền, đàn xến, ghi-ta phím lõm còn gọi là lục huyền cầm, tam thập lục, vi-ô-lông, hạ uy cầm. Cây lục huyền cầm hay ghi-ta phím lõm có nhiều khả năng về cung bậc, âm thanh trầm bổng lại có thể luyến láy do phím móc sâu. Từ 40 năm nay, ghita phím lõm giữ vai trò chính trong dàn nhạc cải lương, và sau này đàn ghi ta phím lõm có gắn điện giống ghi-ta điện. Ngoài dàn nhạc cố, còn có thêm dàn nhạc Tây phương với piano, saxo, clarinette, trống, ghi-ta điện, và đàn synthe hay organ. Những bài bản được nghe trong tuồng cải lương đều phát xuất từ dân ca cổ nhạc miền Nam phần lớn, và những làn điệu trong nhạc đàn tài tử, một loại nhạc thính phòng miền Nam. Có thể phân loại một số bài bản thông dụng như Từ những điệu ca dân gian như những điệu Lý chẳng hạn từ điệu Lý ngựa ô biến thành điệu cải lương Ô Mã 18 câu nhịp đôi. Từ những bài nhạc lễ cung đình trong hát bội sau được cải biên dùng trong cải lương như Vũ Biền Xuất Đôi, Nam Xuân, Nam Ai, Nam Đảo, Ngũ Đối Thượng, Ngũ Đối Hạ, Long Đăng, Tiểu Khúc, vv.. Từ những sáng tác mới sau này khi có ca ra bộ, hát cải lương như Văn Thiên Tường, Tứ Đại Oán, Trường Tương Tư, Lưu Thủy Trường, Ái Tử Kê, Vọng Cổ, vv.. Từ những điệu hát lấy từ nhạc nước ngoài nhất là từ Trung Quốc, nhạc Quảng Đông xuyên qua các bài Xang Xừ Líu, Khốc Hoàng Thiên, Liễu Xuân Nương, Bản Tiêu, Lạc Âm Thiều, Đã nói đến sân khấu Cải lương, không thể nào không nói đến bản nhạc “đinh” trong các vở. Đó là bản vọng cổ. Có người cường điệu “không có bản vọng cố không thể trở thành một đêm hát cải lương…” Lời khẳng định trên có phần hơi quá, nhưng nghĩ kĩ lại cũng không sai. Tính hấp dẫn của một đêm diễn Cải lương không thể không nói tới sức thu hút kì diệu của bản vọng cổ. Được biết vào năm 1918 Ông Cao Văn Lầu đã sáng tác bản Dạ Cổ Hoài Lang, sau này trở thành bản vọng cổ. Dạ Cổ Hoài lang tiền thân của bản vọng cổ đã tạo ra một không khí mới cho nền ca nhạc cổ miền Nam. Từ đó trở đi, bất kì trong một vở Cải lương nào, bản vọng cổ vẫn là bản nhạc chủ đạo, thể hiện một cách đa dạng qua tất cả tình huống, trong một vở Cải lương.. Nhìn lại nghệ thuật sân khấu Cải lương, chúng ta không thể nào quên những nghệ sĩ lão thành có mặt từ đầu bộ môn nghệ thuật này, như kép Bảy Thông, đào Năm Thoàn trong gánh Cải Lương của Thầy Năm Tú ở tại Mỹ Tho, như Năm Châu, Phùng Há, Năm Phỉ, Bảy Nam, Bảy Nhiêu, Ba Vân, Út Trà Ôn… Những người nghệ sĩ này đã truyền nghề cho một thế hệ không kém nổi tiếng mà ngày nay không ai là không biết đến như nghệ sĩ ưu tú Kim Cương, nghệ sĩ Duy Lân, nghệ sĩ Thành Được, nghệ sĩ Út Bạch Lan, nghệ sĩ Hữu Phước, nghệ sĩ nhân dân Thanh Tòng, nghệ sĩ Việt Hùng… Sau nữa còn có nghệ sĩ Hùng Cường, nghệ sĩ ưu tú Bạch Tuyết, nghệ sĩ Thanh Sang, nghệ sĩ ưu tú Ngọc Giàu, nghệ sĩ ưu tú Lệ Thuỷ, nghệ sĩ Mộng Tuyền, nghệ sĩ Đỗ Quyên, nghệ sĩ Hoài Thanh… Và tiếp theo sau là thế hệ mới ngày nay người ta không thể quên có một Hương Lan con gái nghệ sĩ Hữu Phước. Vũ Linh. Tài Linh, Ngọc Huyền, Kim Tử Long… Bây giờ đã có Quế Trân con gái nghệ sĩ Thanh Tòng, Thị Trang, Lê Tứ… trong số nghệ sĩ lão thành và trẻ tuổi không thể kể hết. Ngày nay người ta vẫn yêu mến bộ môn này bởi vì bên cạnh những sân khấu kịch nghệ, sân khấu ca nhạc trẻ, sân khấu nghệ thuật cải lương đã luôn định hình trong lòng khán giả và còn tiếp tục đi tới trong việc bảo tồn, lưu giữ. Trong mấy năm sau này, những nghệ sĩ như Thanh Tòng, Út Bạch Lan, Bạch Tuyết… có tổ chức những đêm cải lương diễn lại trích đoạn của nhiều tuồng đã được khán giả yêu chuộng và đã thu hút rất nhiều khán giả hâm mộ cải lương. Những chương trình truyền hình như cánh chim không mỏi, Vầng trăng Cổ nhạc được đông đảo khán giả theo dõi. Hai đài truyền hình HTV7 và HTV9 thường xuyên phát sóng nhiều vở tuồng cải lương mới, cũ. Có dịp ra nước ngoài, người ta vẫn nghe tiếng hát của các nghệ sĩ trẻ Việt kiều hát cải lương hoặc bà con ở hải ngoại sẵn sàng bỏ một buổi làm việc để mua được tại phòng vé một chỗ xem trình diễn “cải lương” mà nghệ sĩ từ Việt Nam qua biểu diễn. Đặc biệt bên Pháp và bên Mỹ, cải lương rất thịnh hành. Nhiều nghệ sĩ cải lương tại hai nước đó, chẳng những diễn lại những vở tuồng xưa mà gần đây đã dàn dựng những vở mới. Như thế, “cải lương” quả đã được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. cải lương cũng đã được thay đổi qua nhiều thế hệ, chịu thử thách với thời gian, với nhiều thử nghiệm. Tuy sinh sau đẻ muộn, so với hát chèo, hát bội hát tuồng, hát cải lương trong một thời gian ngắn đã đi một bước rất dài, đi sâu vào trong lòng người dân Nam Bộ nói riêng, người Việt Nam nói chung và đã trở thành một truyền thống vững chắc trong kịch nghệ Việt Nam. Đề 83 – Thuyết minh về cải lương – nghệ thuật sân khấu truyền thống Nam Bộ Việt giá bài viết
thuyết trình về cải lương