☂️ Diện Tích Của Malaysia

Vì vậy, cuộc đối đầu giữa các cầu thủ trấn giữ hai hành lang của tuyển Việt Nam và Malaysia sẽ có ý nghĩa quyết định kết quả trận đấu. Ở trận thua UAE 0-4, tuyển Malaysia ra quân với bộ đôi Corbin Ong - Mohamadou Sumareh (biên trái) và Mathiew Davies - Safawi Rasid (cánh phải). Nồi có dung tích 1.8 lít phù hợp nấu cơm cho 4 - 6 người ăn. Đồ dầy phù hợp, hương vị tuyệt hảo. Lòng Nồi cơm điện tử dày 4,0 mm giúp giữ nhiệt hoàn hảo cung cấp nhiệt đồng đều đến từng hạt gạo và giúp cơm thơm hơn, giữ nguyên vị ngọt tự nhiên của hạt gạo Còn về chiều ngang thì kéo dài từ kinh độ 104 o 36′ đến kinh độ 104 o 24′ Đông. Làm một phép so sánh nhỏ với Việt Nam chúng ta với diện tích lên đến 331.212 km2 hay với Trung Quốc là 9.597.000 km2 thì thực sự đất nước Singapore vô cùng nhỏ bé. Bếp điện từ Munchen GM-5860 là sản phẩm nhập khẩu nguyên chiếc từ Đức, được rất nhiều chị em ưa thích lựa chọn. Phần mặt kính của bếp được chế tạo từ kính Schott Ceran nguyên tấm của Đức, chịu nhiệt lên đến 1000 độ C, rất an toàn đối với người sử dụng. TTO - Đại sứ Trần Việt Thái đã bày tỏ sự xúc động trước nghĩa cử hướng về quê hương của người Việt Nam tại Malaysia. Bà Trần Thị Chang, đại diện trao tặng, tâm sự dù dịch tại Malaysia đang rất phức tạp, kiều bào vẫn luôn hướng về tổ quốc. Thông số kỹ thuật của đồng hồ đo lưu lượng nước điện từ Flowtech Malayisa Model FMA: Hãng sản xuất: Flowtech - Malaysia. Model: FMA. Đường kính: DN15-DN20-DN25-DN32-DN40-DN50-DN65-DN80-DN100-DN125-DN150-DN200-DN250-DN300..-DN800…. Đồng hồ đo nước điện từ Flowtech có 2 phiên bản: Mặt Dung tích 1.8 lít đủ nhu cầu cơm cho gia đình 4 - 6 thành viên. Nồi có 1 mâm nhiệt lớn nấu cơm nhanh, tiết kiệm điện. Van thoát hơi thông minh, giữ lại dưỡng chất có trong gạo. Lòng nồi bằng Hợp kim nhôm tráng men chống dính. Model: MEV18HRA - Mã hàng: 301847. Dự án có diện tích 100 ha, trồng chuối Cavendish có xuất xứ từ Nam Mỹ. Đây là loại cây có khả năng chống chịu dịch bệnh tốt, tốc độ sinh trưởng nhanh và rất thơm ngon. KDA hướng đến phân khúc nông sản cao cấp trong nước và xuất khẩu, được đầu tư kỹ lưỡng, bài bản từ khâu chọn giống đến trồng và thu hoạch với công nghệ tiên tiến. MITI cho hay, báo cáo phân tích chi phí-lợi ích về CPTPP dự tính tổng kim ngạch thương mại của Malaysia sẽ tăng lên 655,9 tỷ USD vào năm 2030 thông qua hiệp định này. Nguồn: Vietnam+. CPTPP là hiệp định thương mại tự do loại bỏ 95% thuế quan giữa 11 thành viên. rnaI. TỔNG QUAN NƯỚC MALAYSIA 1 Vị trí địa lý và các vùng lãnh thổ Malaysia là quốc gia nằm khu vực Đông Nam Á, nằm ở phía Bắc đường xích đạo, gồm hai khu vực không liền kề Bán đảo Malaysia Semenanjung Malaysia hay còn được gọi là Tây Malaysia Malaysia Barat nằm trên bán đảo Mã Lai và Đông Malaysia Malaysia Timur, nằm trên đảo Borneo. Thủ đô Malaysia là Kuala Lumpur, nằm ở bán đảo phía Tây, cách 40 km từ bờ biển; trung tâm hành chính, Putrajaya, nằm cách Thủ đô Kuala Lumper khoảng 25 km về phía Nam. Bán đảo phía Tây Malaysia có phía Bắc giáp với Thái Lan, có đường biến giới chung vào khoảng 480 km. Phía Nam giáp với Singapore, về phía Tây Nam, qua eo biển Malacca là đảo Sumatra ở Indonesia. Bán đảo phía Đông Malaysia bao gồm hai tiểu bang lớn nhất của đất nước, Sarawak và Sabah, hai tiểu bang này chiếm khoảng một phần tư phía Bắc của hòn đảo lớn Borneo và chia sẻ ranh giới đất liền với Indonesia Kalimantan. Được bao quanh bởi Sarawak là một vùng đất nhỏ ven biển – vương quốc Brunei. Tổng diện tích của Malaysia là 330,803 km2, trong đó bán đảo Tây Malaysia chiếm khoảng 40% và Đông Malaysia khoảng 60%. Đất nước Malaysia gồm hai bán đảo phía Đông và phía Tây. Bán đảo phía Tây Malaysia bao gồm 11 bang sau đây – Perlis + Thủ Phủ Kangar. + Diện tích 821 km2. + Dân số người. + Perlis là bang nhỏ nhất của Malaysia. Bang này nằm ở phần phía Bắc của bán đảo Tây của Malaysia. Perlis giáp với hai tỉnh Satun và Songkhla của Thái Lan ở phía Bắc và bang Kedah ở phía Nam. Trong thời kỳ chi phối Perlis, người Xiêm gọi nơi đây là Palit. Perlis vốn là một phần của Kedah, mặc dù đôi khi nằm dưới quyền kiểm soát của Thái Lan hay Malaysia. Thủ phủ của bang là Kangar còn Dinh thự hoàng gia nằm ở Arau. – Kedah + Thủ Phủ Alor Setar. + Diện tích km2. + Dân số 1,890,098 người. + Kedah giáp với bang Perlis và có đường biên giới quốc tế với hai tỉnh Songkhla và Yala của Thái Lan ở phía Bắc. Kedah giáp với bang Perak ớ phía Nam và bang Penang ở phía Tây Bắc. Thủ phủ và trụ sở hoàng gia là Alor Setar. + Kedah có hai phần là vùng đất liền với các đô thị chính là Alor Setar, Sungai Petani, Kulim và đảo Langkawi với đô thị chính là Kudah. Khu vực đất liền có địa hình tương đối bằng phẳng và là nơi trồng lúa gạo. Langkawi là một quần đảo với rất ít người cư trú. – Penang + Thủ Phủ George Town. + Diện tích km2. + Dân số triệu người. + Penang tiếng Mã Lai Pulau Pinang là một bang tại Malaysia và được định danh theo đảo cấu thành nên bang. Bang Penang nằm ở vùng bờ biển Tây Bắc, sát eo biển Malacca. Penang giáp với Kedah ở phía Bắc và Đông, giáp với Perak ở phía Nam. Penang là bang nhỏ thứ hai tại Malaysia về diện tích sau Perlis, và là bang đông dân thứ tám. Penang gồm hai bộ phận – đảo Penang là nơi đặt trụ sở chính phủ, Seberang Perai nằm trên đất liền. Penang là nơi đô thị hóa và công nghiệp hóa cao độ, là một trong các bang phát triển nhất và quan trọng nhất về mặt kinh tế tại Malaysia, đồng thời là một điểm đến du lịch phát triển mạnh. Penang có chỉ số phát triển con người cao thứ hai tại Malaysia, sau Kuala Lumpur. Penang là bang có đa dạng cao độ về dân cư, văn hóa, ngôn ngữ, và tôn giáo. – Perak + Thủ Phủ Ipoh. + Diện tích km2. + Dân số người. + Perak là một trong 13 bang của Malaysia. Bang Perak có diện tích lớn thứ hai ở Bán đảo Tây Malaysia. Perak giáp với Kedah và tỉnh Yala của Thái Lan ở phía Bắc, Penang ở phía Tây Bắc, Kelantan và Pahang ở phía Đông, Selangor ở hướng Nam và phía Tây là eo biển Malacca. Perak trong tiếng Mã Lai có nghĩa là “bạc”. Tên này được bắt nguồn từ màu sắc óng ánh giống như bạc của thiếc. Thủ phủ của bang là Ipoh và thủ phủ hoàng gia của bang là Kuala Kangsar. – Selangor + Thủ Phủ Shah Alam. + Diện tích km2. + Dân số người. + Selangor là một trong 13 bang của Malaysia. Bang này nằm trên bờ biển Tây của bán đảo Mã Lai và giáp Perak về phía Bắc, Pahang về phía Đông, Negeri Sembilan về phía Nam và eo biển Malacca về phía Tây. Selangor hoàn toàn được bao quanh bởi các lãnh thổ liên bang Kuala Lumpur và Putrajaya. – Negeri Sembilan + Thủ Phủ Seremban. + Diện tích km2. + Dân số trên người. + Negeri Sembilan nằm tại duyên hải phía Tây của Bán đảo Malaysia, ngay phía Nam của Kuala Lumpur và giáp với Selangor tại phía Bắc, Pahang tại phía Đông, và Malacca cùng Johor tại phía Nam. Tên gọi của bang được cho là bắt nguồn từ chín Sembilan làng Nagari trong ngôn ngữ Minangkabau. Những đặc trưng của dân tộc Minangkabau vẫn hiện diện trong kiến trúc truyền thống và phương ngôn Mã Lai được nói tại bang. – Malacca + Thủ Phủ Malacca City. + Diện tích km2. + Dân số người. + Malacca biệt danh Bang Lịch sử, là bang nhỏ thứ ba của Malaysia, sau Perlis và Penang. Nó giáp với Negeri Sembilan phía Bắc và Johor phía Nam. Thủ phủ bang là thành phố Malacca. Thành phố lịch sử này đã được UNESCO công nhận là di tích lịch sử từ 07/07/2008. – Johor + Thủ Phủ Johor Bahru. + Diện tích km2. + Dân số người. + Johor là một bang của Malaysia, nằm tại phần phía Nam của Malaysia bán đảo. Đây là một trong các bang phát triển nhất tại Malaysia. Thủ phủ của bang Johor là Johor Bahru, từng được gọi là Tanjung Puteri. Thành phố vương tộc của bang là Muar đồng thời là một địa điểm du lịch nổi tiếng tại Malaysia. – Pahang + Thủ Phủ Kuantan. + Diện tích km2. + Dân số người. + Với diện tích km2 đây là bang rộng thứ ba của Malaysia, sau Sarawak và Sabah. Bang này chiếm chừng 10,9% tổng diện tích Malaysia. Tuy vậy, với dân số 1,63 triệu dân, đây chỉ là bang đông dân thứ chin. Thủ phủ và thành phố lớn nhất của Pahang là Kuantan. – Terengganu. + Thủ Phủ Kuala Terengganu. + Diện tích km2. + Dân số 1,015,776 người. + Terengganu là một vương quốc Hồi giáo và một bang cấu thành của Malaysia. Thành phố ven biển Kuala Terengganu nằm ở cửa sông Terenganu đóng vai trò vừa là thủ phủ của bang và của vương thất, cũng là thành phố lớn nhất Terengganu. Terenganu nằm ở phía Đông Bắc của Malaysia Bán đảo, giáp với Kelantan về phía Tây Bắc, với Pahang ở hướng Tây Nam và giáp Biển Đông ở phía Đông. Một vài hòn đảo xa bờ bao gồm Pulau Perhentian, Pulau Kapas và Pulau Redang cũng thuộc về bang. – Kelantan + Thủ Phủ Kota Bharu. + Diện tích km2. + Dân số người. + Kelantan là một bang của Malaysia. Kelantan nằm ở góc Đông Bắc của Malaysia Bán đảo. Bang giáp với tỉnh Narathiwat của Thái Lan ở phía Bắc, Terengganu ở phía đông, Perak ở phía Tây và Pahang ở phía Nam. Bang giáp với biển Đông ở phía Bắc. Kelantan là một bang nông nghiệp với những đồng lúa và các làng chài ven biển. Thủ phủ và trụ sở hoàng gia của bang là Kota Bharu. Bán đảo phía Đông Malaysia bao gồm 2 lãnh thổ liên bang sau đây – Sarawak + Thủ Phủ Kuching. + Diện tích km2. + Dân số người. + Sarawak là một trong hai lãnh thổ liên bang của Malaysia nằm trên đảo Phía Đông Malaysia -Borneo cùng với Sabah. Lãnh thổ này có quyền tự trị nhất định trên lĩnh vực hành chính, nhập cư và tư pháp khác biệt với các bang tại bán đảo phía Tây Mã Lai. Sarawak nằm tại miền Tây Bắc đảo Borneo, giáp với bang Sabah về phía Đông Bắc, giáp với phần đảo Borneo thuộc Indonesia hay còn gọi là Kalimantan về phía Nam, và giáp với quốc gia độc lập Brunei tại Đông Bắc. Thành phố thủ phủ bang là Kuching, đây là trung tâm kinh tế của bang và là nơi đặt trụ sở chính phủ cấp bang. Các thành thị lớn khác tại Sarawak gồm Miri, Sibu, và Bintulu. Srawak có khí hậu xích đạo cùng các khu rừng mưa nhiệt đới và các loài động thực vật phong phú. Sarawak sở hữu một số hệ thống hang động đáng chú ý tại Vườn quốc gia Gunung Mulu. Sông Rajang là sông dài nhất tại Malaysia; Đập Bakun trên một phụ lưu của sông này nằm trong số các đập lớn nhất của Đông Nam Á. Núi Murud là điểm cao nhất tại Sarawak. – Sabah + Thủ Phủ Kota Kinabalu. + Diện tích km2. + Dân số người. + Sabah là một trong hai vùng lãnh thổ liên bang của Malaysia nằm trên đảo Borneo cùng với Sarawak. Bang được hưởng một số quyền tự trị trong hành chính, nhập cư và tư pháp khác biệt với các bang tại Malaysia bán đảo. Sabah nằm tại miền Bắc đảo Borneo, có biên giới với bang Sarawak về phía Tây Nam, và giáp với phần đảo Borneo thuộc Indonesia hay còn gọi là Kalimantan về phía Nam, bị chia tách qua biển với Lãnh thổ Liên bang Labuan và Việt Nam ở phía Tây và với Philippines về phía Bắc và Đông. Kota Kinabalu là thành phố thủ phủ và trung tâm kinh tế của bang. Các đô thị lớn khác tại Sabah là Sandakan và Tawau. Sabah có khí hậu xích đạo, có các khu rừng mưa nhiệt đới với các loài động thực vật phong phú. Bang có một dãy núi dài tại phía Tây là bộ phận của Vườn quốc gia Dãy Crocker. Sông Kinabatangan là sông dài thứ nhì tại Malaysia còn Núi Kinabalu là điểm cao nhất tại Sabah cũng như Malaysia. 2 Khí hậu Nằm gần đường xích đạo, khí hậu của Malaysia được phân loại là xích đạo, nóng và ẩm quanh năm. Lượng mưa trung bình là 2500 mm một năm và nhiệt độ trung bình là 27 ° C. Khí hậu của bán đảo và phương Đông khác nhau, vì khí hậu trên bán đảo bị ảnh hưởng trực tiếp bởi gió từ đất liền, trái ngược với thời tiết biển nhiều hơn của phương Đông. Malaysia tiếp xúc với hiệu ứng El Niño, làm giảm lượng mưa vào mùa khô. Biến đổi khí hậu có thể có tác động đáng kể đến Malaysia, làm tăng mực nước biển và lượng mưa, làm tăng nguy cơ ngập lụt và dẫn đến hạn hán lớn. Có hai kiểu gió mùa tại Malaysia. Gió mùa Tây Nam từ tháng 4 đến tháng 9 và gió mùa Đông Bắc từ tháng 10 đến tháng 3. Gió mùa Đông Bắc mang lại lượng mưa nhiều hơn so với gió mùa Tây Nam, bắt nguồn từ Trung Quốc và Bắc Thái Bình Dương. Gió mùa tây nam bắt nguồn từ sa mạc của Úc. Tháng ba và tháng mười là thời điểm giao thoa giữa hai kiểu gió mùa. 3 Dân số Dân số hiện tại của Malaysia là người vào ngày 23/05/2018 theo số liệu mới nhất từ Liên Hợp Quốc. Dân số Malaysia hiện chiếm 0,41% dân số thế giới. Malaysia đang đứng thứ 44 trên thế giới trong bảng xếp hạng dân số các nước và vùng lãnh thổ. Mật độ dân số của Malaysia là 97 người/km2. Với tổng diện tích là km2. 77% dân số sống ở thành thị người vào năm 2016. Độ tuổi trung bình ở Malaysia là 29 tuổi. 4 Kinh tế Malaysia Nền kinh tế của Malaysia là lớn thứ 4 ở Đông Nam Á, và là nền kinh tế lớn thứ 38 trên thế giới. Năng suất lao động của Malaysia cao hơn đáng kể so với các nước láng giềng Indonesia, Philippines hay Việt Nam do cường độ cao của các ngành công nghiệp dựa trên tri thức và áp dụng công nghệ tiên tiến cho sản xuất và nền kinh tế kỹ thuật số. Theo Báo cáo cạnh tranh toàn cầu năm 2017, nền kinh tế Malaysia là quốc gia cạnh tranh thứ 23 trên thế giới trong giai đoạn 2017–2018. Công dân Malaysia dẫn đầu một lối sống giàu có hơn nhiều so với các đồng nghiệp của họ ở các nước có thu nhập trung bình như Mexico, Thổ Nhĩ Kỳ và Brazil. Điều này là do thuế thu nhập quốc gia thấp, chi phí thức ăn địa phương thấp, nhiên liệu vận chuyển, vật dụng cần thiết cho hộ gia đình, trợ cấp y tế công cộng và trợ cấp xã hội toàn diện được trợ cấp đầy đủ với chuyển tiền trực tiếp. Với thu nhập bình quân đầu người là đô la Mỹ năm 2017 theo và GDP danh nghĩa là đô la Mỹ, Malaysia là quốc gia giàu có thứ ba ở Đông Nam Á sau các thành phố nhỏ hơn của Singapore và Brunei. Malaysia có nền kinh tế thị trường mới được công nghiệp hoá, tương đối cởi mở và có định hướng nhà nước. Nền kinh tế Malaysia là rất mạnh mẽ và đa dạng với giá trị xuất khẩu các sản phẩm công nghệ cao trong năm 2015 đứng ở mức tỷ USD, đứng thứ hai sau Singapore ở ASEAN. Malaysia xuất khẩu khối lượng và giá trị lớn thứ hai của sản phẩm dầu cọ trên toàn cầu sau Indonesia. Mặc dù chính sách của chính phủ để tăng thu nhập bình quân đầu người để đẩy nhanh tiến độ đối với nước có thu nhập cao vào năm 2020, tăng trưởng tiền lương của Malaysia đã rất chậm, tụt hậu so với tiêu chuẩn OECD. Nghiên cứu học thuật của IMF và Ngân hàng Thế giới đã nhiều lần kêu gọi cải cách cơ cấu và đổi mới nội sinh để đưa đất nước lên chuỗi giá trị sản xuất để cho phép Malaysia thoát khỏi bẫy thu nhập trung bình hiện tại do sự phụ thuộc nặng nề vào xuất khẩu dầu đối với doanh thu của chính phủ trung ương, biến động tiền tệ đáng chú ý trong thời gian cung cấp và giá dầu sụp đổ trong năm 2015. Tuy nhiên, chính phủ đã tăng cường các biện pháp để tăng doanh thu bằng cách giới thiệu thuế hàng hóa và dịch vụ GST với tỷ lệ 6% để giảm thâm hụt và đáp ứng các nghĩa vụ nợ liên bang. 5 Chính trị Malaysia Chính trị của Malaysia diễn ra trong khuôn khổ một chế độ quân chủ lập hiến dân chủ đại diện liên bang, trong đó Yang di-Pertuan Agong là người đứng đầu nhà nước và Thủ tướng Malaysia là người đứng đầu chính phủ. Quyền hành pháp được thực hiện bởi chính phủ liên bang và 13 chính phủ tiểu bang. Quyền lập pháp liên bang được trao cho quốc hội liên bang và 13 hội đồng nhà nước. Tư pháp độc lập với người điều hành và cơ quan lập pháp, mặc dù chủ tịch điều hành duy trì một mức độ ảnh hưởng nhất định trong việc bổ nhiệm thẩm phán cho tòa án. Hiến pháp Malaysia được mã hóa và hệ thống chính phủ dựa trên hệ thống Westminster. Phân cấp thẩm quyền ở Malaysia, theo Hiến pháp Liên bang, quy định ba nhánh các thành phần hành chính của chính phủ Malaysia bao gồm chi nhánh hành pháp, tư pháp và lập pháp. Trong khi đó, Quốc hội bao gồm Dewan Negara Thượng viện / Hạ viện và Dewan Rakyat Hạ viện / Hạ viện. Malaysia đã có một hệ thống đa đảng kể từ cuộc bầu cử trực tiếp đầu tiên của Hội đồng Lập pháp Liên bang Malaya năm 1955 trên cơ sở đầu tiên trong quá khứ. Đảng cầm quyền là liên minh Đảng Liên minh Malay Parti Perikatan và từ năm 1973 trở đi, người kế nhiệm của nó, liên minh Barisan Nasional Mặt trận Quốc gia. Kể từ cuộc tổng tuyển cử lần thứ 14 được tổ chức vào ngày 9 tháng 5 năm 2018, liên minh Pakatan Harapan được bầu làm chính phủ liên bang mới. Liên minh Pakatan Harapan hiện bao gồm PKR Đảng Tư pháp Nhân dân Malaysia, Đảng Hành động Dân chủ Malaysia, Đảng Tin tưởng Quốc gia Malaysia, Đảng Bản địa Malaysia, và Đảng Di sản Sabah. Đối lập được tạo thành từ một trong chính phủ phục vụ dài nhất thế giới Barisan Nasional, Đảng Hồi giáo Pan-Malaysia PAS, Đảng Xã hội Malaysia PSM và các đảng nhỏ khác. Mặc dù chính trị Malaysia đã tương đối ổn định, các nhà phê bình cho rằng “chính phủ, đảng cầm quyền, và chính quyền được gắn bó với một số lực lượng đối kháng.” Tuy nhiên, kể từ ngày bầu cử tổng thống ngày 8 tháng 3 năm 2008, giới truyền thông về chính trị của đất nước đã tăng đáng kể. 6 Các địa điểm du lịch nồi tiếng tại Malaysia Nếu các nước được trao giải cho sự đa dạng, Malaysia sẽ đứng đầu trong danh sách đó. Malaysia không chỉ là nơi giao thoa giữa của nền văn hóa khác nhau, mà còn là nơi của nhiều phong tục, ẩm thực và tôn giáo khác cùng tồn tại một cách hòa bình và tôn trọng. Từ các nhóm đảo lớn đến núi non, những vùng cao nguyên màu mỡ hay là những khu rừng nhiệt đới, tất cả đều thể hiện sự đa dạng trong địa lý của Malaysia. Hơn nữa, Malaysia là một quốc gia duy nhất trong đó được chia thành hai vùng đất chính. Tây Malaysia chiếm nửa phía Nam của một bán đảo chia sẻ với Thái Lan, Đông Malaysia nằm trên đảo Borneo. Sau đây là một vài địa điểm du lịch nổi tiếng mà du khách không nên bỏ qua khi tham quan đất nước Malaysia xinh đẹp. – Kota Bharu. Thường được sử dụng như là điểm dừng chân của nhiều du khách đến thăm Quần đảo Perhentian xinh đẹp, Kota Bharu mang đến nét duyên dáng độc đáo, các điểm tham quan, mua sắm và ẩm thực. Nằm ở bán đảo Malaysia gần biên giới Thái Lan, Kota Bharu là thủ phủ của bang Kelantan. Phần lớn cuộc sống Kota Bharu xoay quanh các khu chợ nhộn nhịp của thành phố, trong đó; Chợ Trung tâm là khu chợ lớn nhất được bao quanh bởi các cửa hàng cà phê và những con phố đông đúc rải rác với những chiếc xích lô cũ, Chợ Trung tâm cũng là nơi những phụ nữ địa phương đang làm việc và bán rau quả đầy màu sắc. – Melaka. Tọa lạc tại một vị trí quan trọng trên tuyến đường biển bận rộn giữa Ấn Độ và Trung Quốc trên bờ biển phía Tây Nam của Tây Malaysia, Melaka được cai trị và chiến đấu trong nhiều thế kỷ giữa chính phủ Ấn Độ, Bồ Đào Nha, Anh và Hà Lan. Kết quả là, ngày nay thành phố Mekela là một trong những thành phồ hiện đại và là nơi tốt nhất để ghé thăm tại Malaysia với kiến trúc, văn hóa, truyền thống và ẩm thực, tất cả đều phản ánh di sản phong phú của Mekela. Khu định cư Bồ Đào Nha ở Melaka được đặc trưng bởi các biệt thự duyên dáng và các pháo đài cũ còn lưu lại nơi đây. Khu vực Hà Lan có một số kiến trúc Hà Lan cổ nhất ở phía Đông. – Cameron Highlands. Cao nguyên Cameron ở Dãy núi Titiwangsa là một trong những điểm du lịch lâu đời nhất của Malaysia. Được phát triển với một khu vườn quyến rũ của Anh, vùng đất hoang xinh đẹp này có cảnh quan tươi tốt, rừng, hồ, động vật hoang dã và các hoạt động giải trí ngoài trời. Là nơi sản xuất hoa và trà chính của Malaysia, Cao nguyên Cameron cũng có rất nhiều đồn điền trà và trang trại hoa đầy màu sắc. Nhiều cơ sở trong số này mở cửa cho khách du lịch vào tham quan và chụp ảnh lưu niệm. – Kota Kinabalu. Thủ phủ của bang Sabah ở Borneo của Malaysia, Kota Kinabalu là một điểm đến du lịch phát triển nhanh do gần với các hòn đảo nhiệt đới, rừng nhiệt đới, nơi trú ẩn động vật hoang dã, công viên quốc gia và đỉnh núi Kinabalu cao nhất Malaysia. Kota Kinabalu có một trung tâm thành phố nhỏ, tự hào với một số địa danh, đài tưởng niệm và đài quan sát, nơi có tầm nhìn tuyệt đẹp ra quang cảnh thành phố. – Kuching. Thành phố lớn nhất trên Đảo Borneo, Kuching là một cơ sở nổi tiếng để khám phá khu rừng mưa nhiệt đới của Borneo và bang Sarawak. Ngoài ra, Kuching cung cấp rất nhiều địa điểm du lịch thu vị cho khách du lịch trong thời gian lưu trú của họ, từ các địa danh lịch sử tham quan đến các khu chợ nhộn nhịp và giải trí ngoài trời. Thành phố này nằm trên bờ sông Sarawak với bờ sông tuyệt đẹp tạo cảnh quan cho tầm nhìn ra các địa danh lịch sử như Fort Margherita và cung điện Astana. – Penang. Nằm ở eo biển Malacca ngoài khơi bờ biển phía Tây Bắc của bán đảo Tây Malaysia, đảo Penang nơi có thành phố George Town lịch sử là một điểm đến du lịch nổi tiếng. Với vị trí dọc theo một trong những tuyến đường vận chuyển du lịch nhiều nhất thế giới, Penang sở hữu một loạt các nền văn hóa, kiến trúc và ẩm thực đầy màu sắc. Chuyến viếng thăm Penang sẽ không thực sự trọn vẹn nếu du khách không có một chuyến đi xích lô hoặc đi bộ xung quanh thành phố thủ đô của hòn đảo, George Town, để xem kiến trúc thuộc địa Anh còn soát lại và các ngôi đền lịch sử Trung Quốc và Ấn Độ. – Kuala Lumpur. Cách đây chưa đầy 200 năm, Kuala Lumpur chỉ là một thị trấn khai thác thiếc yên tĩnh ở Tây Malaysia. Ngày nay, ngôi làng bình yên này đã phát triển thành thủ đô và đô thị lớn nhất của đất nước. Thường được người dân địa phương gọi là KL, Kuala Lumpur là nơi các nền văn hóa gặp nhau, được ghi nhận cho những tòa nhà chọc trời ấn tượng và những cảnh nhộn nhịp về mua sắm và ăn uống. KL không thực sự có trung tâm thành phố như những thành phố khác trên thế giới mà sự phát triển của KL tương đối đồng đều ở hầu hết các khu vực như Quận thuộc địa cũ có kiến trúc đặc biệt, Quảng trường Merdeka với lối kiến trúc hài hòa, Chinatown là một trung tâm du lịch nhộn nhịp, trong khi đó, Tam Giác Vàng thể hiện sự hiện đại của thành phố với tòa Tháp Petronas chọc trời nổi bật nhất KL. Malaysia, tên gọi chính thức là Liên bang Malaysia, là một quốc gia quân chủ lập hiến liên bang nằm tại phía nam của khu vực Đông Nam Á. Quốc gia này bao gồm 13 bang và ba lãnh thổ liên bang với tổng diện tích đất là kilômét vuông. Cùng tìm hiểu thêm thông tin về bản đồ Malaysia qua bài viết dưới đây nhé!Vị trí địa lý MalaysiaVị trí địa lý MalaysiaMã lai nằm ở trung tâm Đông Nam Á, giữa vĩ độ 1° và 7° Bắc bán cầu, trong khoảng 100° đến 119° kinh tuyến đông, tạo thành hình lưỡi liềm, diện tích khoảng bao gồm 2 vùng– Bán đảo Mã lai có diện tích 131,573 km², phía Bắc giáp Thái Lan, phía Nam giáp Singapore– Hải đảo, gồm 2 bang Sabah và Sarawak, có diện tích 73,711km² và km² nằm ở phía Bắc đảo Borneo, phía Nam giáp Calimantan– Mã lai có km² đường bờ biển trải dài từ Biền Đông sang Ấn Độ dương.– Thủ đô Kuala hình Malaysiaalaysia là quốc gia lớn thứ 67 trên thế giới về diện tích đất liền, với km2 sq mi. Tây Malaysia có biên giới trên bộ với Thái Lan, Đông Malaysia có biên giới trên bộ với Indonesia và Brunei. Malaysia kết nối với Singapore thông qua một đường đắp cao hẹp và một cầu. Malaysia có biên giới trên biển với Việt Nam và Philippines. Biên giới trên bộ được xác định phần lớn dựa trên các đặc điểm địa chất, chẳng hạn như sông Perlis, sông Golok và kênh Pagalayan, trong khi một số biên giới trên biển đang là chủ đề tranh chấp. Brunei hầu như bị Malaysia bao quanh, bang Sarawak của Malaysia chia Brunei thành hai phần. Malaysia là quốc gia duy nhất có lãnh thổ nằm cả trên lục địa châu Á và quần đảo Mã Lai. Điểm cực nam của lục địa châu Á là Tanjung Piai, thuộc bang nam bộ Johor. Eo biển Malacca nằm giữa đảo Sumatra và Malaysia bán đảo, đây là một trong các tuyến đường quan trọng nhất trong thương mại toàn phần của Malaysia tách nhau qua biển Đông, tuy nhiên hai phần này có cảnh quan phần lớn là tương tự nhau với các đồng bằng duyên hải rồi cao lên đồi và núi. Malaysia bán đảo chiếm 40% diện tích đất liền của Malaysia, trải dài 740 km 460 mi từ bắc xuống nam, và có chiều rộng tối đa là 322 km 200 mi. Dãy Titiwangsa phân chia bờ biển đông và tây tại Malaysia bán đảo, dãy núi này là một phần của hàng loạt dãy núi chạy từ phần trung tâm của bán đảo. Các dãy núi này vẫn có rừng bao phủ dày đặc, và có cấu tạo chủ yếu gồm đá hoa cương và các loại đá lửa khác. Nhiều phần trong đó bị xói mòn, tạo thành cảnh quan karst. Dãy núi là đầu nguồn của một số hệ thống sông tại Malaysia bán đảo. Các đồng bằng duyên hải bao quanh bán đảo, có chiều rộng tối đa là 50 kilômét 31 mi, và bờ biển của phần bán đảo dài km mi, song các bến cảng chỉ có ở bờ phía Malaysia nằm trên đảo Borneo, có bờ biển dài km mi. Khu vực này bao gồm các miền ven biển, đồi và thung lũng, và nội lục đồi núi. Dãy Crocker trải dài về phía bắc từ Sarawak, phân chia bang Sabah. Trên dãy này có núi Kinabalu với cao độ m ft, là núi cao nhất Malaysia. Núi Kinabalu được bảo vệ trong khuôn khổ Vườn quốc gia Kinabalu- một di sản thế giới của UNESCO. Các dãy núi cao nhất tạo thành biên giới giữa Malaysia và Indonesia. quần thể hang Mulu tại Sarawak nằm trong số các hệ thống hang lớn nhất trên thế quanh hai phần của Malaysia là một số hòn đảo, lớn nhất trong số đó là đảo Banggi. Malaysia có khí hậu xích đạo, điểm đặc trưng là gió mùa tây nam tháng 4 đến tháng 10 và gió mùa đông bắc tháng 10 đến tháng 2. Các vùng biển xung quanh giúp điều hòa nhiệt độ cho Malaysia. Ẩm độ thường cao, và lượng mưa trung bình hàng năm là 250 cm 98 in. Khí hậu tại Bán đảo và Đông bộ khác biệt, thời tiết Bán đảo chịu ảnh hưởng trực tiếp từ gió thổi từ lục địa, trong khi Đông bộ có khí hậu mang tính hải dương hơn. Các khí hậu địa phương có thể phân thành vùng cao, vùng thấp và vùng duyên hải. Biến đổi khí hậu có thể tác động đến mực nước biển và lượng mưa, tăng nguy cơ lũ lụt và dẫn đến hạn hậu MalaysiaKhí hậu MalaysiaNằm ở tọa độ 3,13 độ về phía Bắc đường xích đạo nên tạo cho thành phố này có thời tiết ấm áp mang tính chất nhiệt đới biển. Thời tiết tại Malaysia nóng ẩm quanh năm với lượng mưa và cường độ phụ thuộc vào thời gian trong năm. ĐĐiều này đem lại cho Kuala Lumpur có khí hậu lý tưởng, phù hợp cho tất cả các du khách du lịch quanh năm. Du khách có thể đến tham quan và khám phá Kuala Lumpur trong suốt cả năm vào bất cứ mùa độ trong ngày thường dao động khoảng 29-35 độ C, ban đêm là 26-29 độ C. Trong mùa mưa thời tiết có thể lạnh hơn vì thành phố được bao bọc bởi núi, thung lũng. Khí hậu ở đây có thể mát hơn so với hầu hết các khu vực khác ở Malaysia và Kuala Lumpur cũng ít bị ảnh hưởng của gió mùa thổi từ phía Đông hay phía mưa xảy ra chủ yếu giữa tháng 10 đến tháng 3, trong khi tháng 5 đến tháng 7 thường là tháng hanh khô. Sáng sớm hay có nắng kéo dài cho tới chiều, buổi tối có thể thấy mưa và thỉnh thoảng có một vài cơn bão. Độ ẩm không khí cao nên cơ thể dễ đổ mồ hôi trong ngày khi đi bộ nhiều. Sự cân bằng về thời tiết tại Malaysia làm cho Kuala Lumpur trở thành một trong những thành phố có khí hậu ổn định nhất để đi du lịch tại bất kỳ thời điểm nào trong số MalaysiaDân số khoảng 26 triệu người, trong đó người Mã laichieems 59%, người Hoa 24%, người Ấn 8%, khoảng 8,2% còn lại là các dân tộc khác người như người Orang Asil ở bán đảo Mã lai, thổ dân vùng Sabah, Sarawak và người Châu cư tập trung tại bờ biển Tây bán đảo Mã lai , nơi có nhiều thành phố lớn và khu công nghiệp. Khoảng 58,8% dân số Mã lai sinh sống tại các khu đô cư Malaysia phân bố không đều, vùng Sabah và Sarawak chỉ chiếm khoảng 23% tổng số dân, trong khi diện tích vùng này chiếm gần 60%.+ Người Hoa sinh sống chủ yếu ở phía Tây, phía Nam bán đảo Mã lai và ở các thành phố.+ Cộng đồng người Ấn độ sinh sống ở các vùng nông thôn lẫn thành thị, nhưng tập trung là ở vùng biển phía Tây bán đảo Mã lai, nơi có nhiều đồn điện cao suMalaysia là một dân tộc trẻ 33,9% dân số dưới 14 tuổi, 62,2% trong độ tuổi từ 15 đến 64; 3,9% còn lại trên 65 tuổi; tỷ lệ tăng dân số là 2,4%/ năm. Tuổi thọ trung bình của nam là 69,8 tuổi, của nữ là 74,8 tuổiMalaysia đang thu hút 2 triệu lao động nước ngoài chủ yếu là người IndonexiaBiểu đồ dân số Malaysia 1950 – 2017Biểu đồ tốc độ gia tăng dân số Malaysia 1951 – 2017Kinh tế MalaysiaKinh tế MalaysiaNền kinh tế phát triển mạnh chủ yếu dựa vào các ngành sản xuất Cao su, dầu cọ, điện tử, công nghiệp chế tạo, dầu mỏ, nằm trong các nước đứng đầu thế giới về sản xuất gỗ và xuất khẩu dầu cọ, cao và dầu mỏ là hai nguồn tài nguyên khoáng sản có giá trị của kinh tế Malaysia. Malaysia từng là nước sản xuất thiếc hàng đầu thế giới cho tới khi thị trường này sụp đổ đầu thập niên lượng dầu khí Malaysia ở mức tỷ barrels còn trữ lượng khí thiên nhiên trên 89 nghìn tỉ Feet khối km³. Ước tính Malaysia sẽ có khả năng khai thác dầu thêm 18 năm và khí gas trong 35 năm nữa. Năm 2004 Malaysia được xếp hạng thứ 24 về trữ lượng dầu và 13 cho trữ lượng khí gas. 56% trữ lượng dầu nằm tại Bán đảo và 19% tại Đông Malaysia. Chính phủ thu số tiền đặc lợi từ dầu khí, 5% trong số đó được trao lại cho các bang và số còn lại bị chính phủ liên bang thu hóa MalaysiaMalaysia là một xã hội đa sắc tộc, đa văn hóa và đa ngôn ngữ, gồm 52% người Malay và các bộ tộc bản xứ khác, 30% người Trung Quốc, 8% người Ấn Độ. Người Malay, là cộng đồng lớn nhất, được xác định là những tín đồ Hồi giáo trong Hiến pháp Malaysia. Âm nhạc chủ yếu dựa quanh gendang trống, nhưng ồm cả các nhạc cụ gõ khác một số làm bằng các loại vỏ và mai; rebab, một nhạc cụ dây hình cung; serunai, nhạc khí hai lưỡi như oboe; sáo, và trumpet. Nước này có truyền thống múa và kịch múa lâu đời, một số có nguồn gốc Thái, Ấn Độ, Bồ Đào Nha. Các hình thức nghệ thuật khác gồm wayang kulit rối bóng, silat một kiểu võ thuật cách điệu hoá và đồ thủ công như batik, dệt, bạc và đồ đúc đồng. Phong tục và những điều cấm kỵ Khi gặp nhau người Malaysia thường có thói quen sờ vào lòng bàn tay người kia, sau đó chắp hai bàn tay với nhau. Người Malaysia rất kỵ việc xoa đầu và lưng người khác. Người Malaysia thường mặc áo dài bằng vải hoa, nam giới mặc áo sơ mi không cổ và không được để hở cánh tay, đùi ở những nơi công cộng. Nữ thường mặc áo dài tay. Chủ đề tốt nhất bàn luận ở Malaysia là công việc buôn bán, thành tựu xã hội, bóng đá, lịch sử… tránh nói đến chủng tộc và chính trị, mức sống, mức thu chính MalaysiaHành chính MalaysiaMalaysia là một quốc gia quân chủ tuyển cử lập hiến liên bang. Hệ thống chính phủ theo mô hình gần với hệ thống nghị viện Westminster, một di sản của chế độ thuộc địa Anh. Nguyên thủ quốc gia là Yang di-Pertuan Agong, thường được gọi là Quốc vương. Quốc vương được bầu theo mỗi nhiệm kỳ 5 năm từ chín quân chủ kế tập của các bang Mã Lai; bốn bang còn lại có nguyên thủ trên danh nghĩa song không tham gia vào việc tuyển lựa. Theo thỏa thuận không chính thức, vị trí Quốc vương sẽ do quân chủ chín bang luân phiên nắm giữ, Vai trò của Quốc vương phần lớn mang tính lễ nghi kể từ sau các thay đổi trong hiến pháp vào năm lập pháp được phân chia giữa các cơ quan lập pháp liên bang và bang. Nghị viện liên bang của Malaysia bao gồm hạ viện và thượng viện. Hạ viện gồm có 222 thành viên, được bầu với nhiệm kỳ tối đa là 5 năm từ các khu vực bầu cử một ghế. Toàn bộ 70 thượng nghị sĩ có nhiệm kỳ 3 năm; 26 người được 13 quốc hội bang tuyển chọn, 44 người được Quốc vương bổ nhiệm theo tiến cử của Thủ tướng. Nghị viện Malaysia theo một hệ thống đa đảng và chính phủ được bầu thông qua một hệ thống đa số chế. Kể từ khi độc lập, cầm quyền tại Malaysia là một liên minh đa đảng được gọi là Barisan bang có một quốc hội đơn viện, các nghị viên được bầu từ các đơn vị bầu cử một ghế. Người đứng đầu các chính phủ bang là các thủ hiến Chief Minister, họ là những thành viên quốc hội và đến từ đảng chiếm đa số trong quốc hội. Tại các bang có quân chủ kế tập, thủ hiến theo thường lệ cần phải là người Mã Lai, do quân chủ bổ nhiệm theo tiến cử của thủ tướng. Các cuộc bầu cử nghị viện được tổ chức 5 năm một lần. Các cử tri đăng ký 21 tuổi hoặc lớn hơn có thể bỏ phiếu để bầu các thành viên của Hạ viện, và bầu các thành viên quốc hội bang ở hầu hết các bang. Bầu cử không bắt buộc. Ngoại trừ Sarawak, cuộc bầu cử cấp bang tại các khu vực còn lại diễn ra đồng thời với bầu cử liên hành pháp được trao cho Nội các do thủ tướng lãnh đạo. Thủ tướng phải là thành viên của hạ viện, được Quốc vương chuẩn thuận, nhận được đa số ủng hộ tại nghị viện. Nội các được lựa chọn từ lưỡng viện quốc hội liên bang. Thủ tướng là người đứng đầu nội các và cũng là người đứng đầu chính thống pháp luật Malaysia dựa trên thông luật Anh. Mặc dù cơ quan tư pháp độc lập về lý thuyết, song sự độc lập của chúng bị đặt dấu hỏi và việc bổ nhiệm các thẩm phán thiếu trách nhiệm giải trình và tính minh bạch. Tòa án tối cao trong hệ thống tư pháp là Tòa án Liên bang, sau đó là Tòa thượng tố và hai Tòa cao đẳng, một cho Malaysia bán đảo và một cho Đông Malaysia. Malaysia cũng có một tòa án đặc biệt để xét xử các vụ án do Quốc vương đưa ra hoặc chống lại Quốc vương. Các tòa án Syariah tách biệt với các tòa án dân sự, các tòa này áp dụng luật Sharia trong các vụ án liên quan đến người Hồi giáo Malaysia và vận hành song song với hệ thống tòa án thế tục. Đạo luật An ninh Nội địa cho phép giam giữ không cần xét xử, và án tử hình được áp dụng cho các tội như buôn bán ma tộc có ảnh hưởng lớn trong chính trị Malaysia, nhiều chính đảng dựa trên nền tảng dân tộc. Các hành động quả quyết như Chính sách Kinh tế mới và thay thế nó là Chính sách Phát triển Quốc gia, được thực hiện nhằm thúc đẩy địa vị của bumiputera, bao gồm người Mã Lai và các bộ lạc bản địa, trước những người phi bumiputera như người Malaysia gốc Hoa và người Malaysia gốc Ấn. Các chính sách này quy định ưu đãi cho bumiputera trong việc làm, giáo dục, học bổng, kinh doanh, tiếp cận nhà giá rẻ hơn và hỗ trợ tiết kiệm. Tuy nhiên, nó gây ra oán giận rất lớn giữa các dân nguyên thiên nhiên MalaysiaMalaysia giàu các nguồn tài nguyên thiên nhiên trong các lĩnh vực như nông nghiệp, lâm nghiệp và khoáng sản. Về nông nghiệp, Malaysia là nước xuất khẩu hàng đầu thế giới sản phẩm cao su tự nhiên và dầu cọ, gỗ xẻ và gỗ nguyên liệu, cocoa, hạt tiêu, dứa và thuốc lá cũng là những mặt hàng chủ lực trong lĩnh vực này. Dầu cọ là một nguồn thu ngoại tệ các nguồn tài nguyên lâm nghiệp, cần lưu ý các sản phẩm gỗ chỉ bắt đầu trở thành mặt hàng đóng góp lớn cho kinh tế trong thế kỷ mười chín. Ngày nay, ước tính 59% diện tích Malaysia được rừng bao phủ. Sự mở rộng nhanh chóng của công nghiệp rừng, đặc biệt sau thập niên 1960, đã mang lại những vấn đề về xói mòn nghiêm trọng với các nguồn tài nguyên rừng quốc gia. Tuy nhiên, cùng với sự cam kết của chính phủ trong việc bảo vệ môi trường và hệ sinh thái, các nguồn tài nguyên rừng đang được quản lý trên cơ sở bền vững và tỷ lệ cây bị khai thác đang giảm ra, nhiều vùng rộng lớn đang được quản lý một các đúng đắn và việc tái trồng rừng tại những vùng đất đã bị khai thác cũng đang được triển khai. Chính phủ Malaysia đã đưa ra kế hoạch phủ xanh khoảng kilômét vuông dặm vuông đất với loại cây mây theo những điều kiện rừng tự nhiên và trồng xen cây cao su. Để tăng cường hơn nữa những nguồn tài nguyên thiên nhiên, những loại cây mọc nhanh như meranti tembaga, merawan và sesenduk cũng đang được trồng. Cùng lúc đó, những loại cây có giá trị cao như tếch và các loại cây nguyên liệu giấy giá trị cao khác cũng được khuyến khích canh tác. Cao su, từng một thời là tâm điểm nền kinh tế Malaysia, đã bị thay thế phần lớn bởi dầu cọ trở thành sản phẩm nông nghiệp xuất khẩu hàng đầu của và dầu mỏ là hai nguồn tài nguyên khoáng sản có giá trị của kinh tế Malaysia. Malaysia từng là nước sản xuất thiếc hàng đầu thế giới cho tới khi thị trường này sụp đổ đầu thập niên 1980. Trong thế kỷ 19 và 20, thiếc đóng vai trò tối quan trọng trong nền kinh tế Malaysia. Chỉ tới năm 1972 dầu mỏ và khí tự nhiên mới thay thế thiếc trở thành mặt hàng chính trong lĩnh vực khai mỏ. Trong lúc ấy, thị phần thiếc trong nền kinh tế đã suy giảm. Dầu mỏ và khí tự nhiên được tìm thấy tại các mỏ dầu ngoài khơi Sabah, Sarawak và Terengganu đã có đóng góp lớn vào nền kinh tế Malaysia đặc biệt tại các bang đó. Các sản phẩm khoáng sản khác cũng khá quan trọng gồm đồng, vàng, bô xít, quặng sắt và than cùng với các khoáng sản công nghiệp như đất sét, cao lanh, silica, đá vôi, barite, phốt phát và các sản phẩm đá cắt như đá granite và đá mable khối hoặc tấm. Một lượng nhỏ vàng được sản xuất tại 2004, Chủ nhiệm văn phòng Thủ tướng, Datuk Mustapa Mohamed, đã tiết lộ trữ lượng dầu khí Malaysia ở mức tỷ barrels còn trữ lượng khí thiên nhiên trên 89 nghìn tỉ Feet khối km³. Con số này tăng so với dự đoán trước ước tính của chính phủ cho rằng ở mức sản xuất hiện nay Malaysia sẽ có khả năng khai thác dầu thêm 18 năm và khí gas trong 35 năm nữa. Năm 2004 Malaysia được xếp hạng thứ 24 về trữ lượng dầu và 13 cho trữ lượng khí gas. 56% trữ lượng dầu nằm tại Bán đảo và 19% tại Đông Malaysia. Chính phủ thu số tiền đặc lợi từ dầu khí, 5% trong số đó được trao lại cho các bang và số còn lại bị chính phủ liên bang thu giữTrên đây là những thông tin liên quan đến bản đồ Malaysia do tổng hợp và chia sẻ đến các bạn. Hy vọng qua bài viết này bạn sẽ có thêm những thông tin hay và tìm kiếm được thông tin cần thiết liên quan đến bản đồ Malaysia bạn nhé! Malaysia phiên âm Ma-lai-xi-a, còn được gọi là Mã Lai là một quốc gia quân chủ lập hiến liên bang nằm tại phía nam của khu vực Đông Nam Á. Quốc gia này bao gồm 13 bang và ba lãnh thổ liên bang với tổng diện tích đất liền là 330,803 km². Malaysia bị tách làm hai phần qua biển Đông Malaysia bán đảo và Borneo thuộc Malaysia. Tây Malaysia có biên giới trên bộ và trên biển với Thái Lan, có biên giới trên biển với Indonesia, Việt Nam và Singapore trong khi Đông Malaysia có biên giới trên bộ và trên biển với Brunei và Indonesia, có biên giới trên biển với Việt Nam và Philippines, giáp biên giới với Campuchia qua Vịnh Thái Lan. Thành phố thủ đô là Kuala Lumpur, song nơi đặt trụ sở của chính phủ liên bang là Putrajaya. Năm 2010, dân số Malaysia được ước tính là 28,33 triệu người, trong đó 22,6 triệu sinh sống tại phần Bán đảo. Malaysia có điểm cực nam của đại lục Á-Âu là Tanjung Piai. Malaysia là một quốc gia nhiệt đới và là một trong 17 quốc gia đa dạng sinh học nhất trên thế giới, với nhiều loài đặc hữu. Malaysia có nguồn gốc từ các vương quốc Mã Lai hiện diện trong khu vực và từ thế kỷ XVIII, các vương quốc này bắt đầu lệ thuộc vào Đế quốc Anh. Các lãnh thổ đầu tiên của Anh Quốc được gọi là Các khu định cư Eo biển. Các lãnh thổ tại Malaysia bán đảo được hợp nhất thành Liên hiệp Malaya vào năm 1946. Malaya được tái cấu trúc thành Liên bang Malaya vào năm 1948 và giành được độc lập vào ngày 31 tháng 8 năm 1957. Malaya hợp nhất với Bắc Borneo, Sarawak, và Singapore vào ngày 16 tháng 9 năm 1963, với từ si được thêm vào quốc hiệu mới là Malaysia. Đến năm 1965, Singapore bị trục xuất khỏi liên bang. Malaysia là một quốc gia đa dân tộc và văn hóa, đặc điểm này đóng một vai trò lớn trong hệ thống chính trị quốc gia. Hiến pháp tuyên bố Hồi giáo là quốc giáo trong khi vẫn bảo vệ quyền tự do tôn giáo. Hệ thống chính quyền của Malaysia có mô hình gần với hệ thống nghị viện Westminster và hệ thống pháp luật dựa trên thông luật của Anh Quốc. Nguyên thủ quốc gia cao nhất là Quốc vương, còn được gọi là Yang di-Pertuan Agong. Người này là một quân chủ tuyển cử, được chọn từ các quân chủ kế tập của chín bang Mã Lai theo chế độ quân chủ, thay đổi sau mỗi 5 năm. Người đứng đầu chính phủ liên bang là thủ tướng. Kể từ sau khi giành được độc lập, Malaysia đã trở thành một trong những nước có nền kinh tế phát triển nhanh và bền vững nhất tại châu Á, GDP tăng trưởng liên tục, trung bình ở mức 6,5% trong gần 50 năm liên tiếp, chỉ số phát triển con người HDI đạt mức rất cao. Về truyền thống, yếu tố thúc đẩy cho kinh tế Malaysia là các nguồn tài nguyên thiên nhiên, song, quốc gia này hiện cũng đang rất phát triển trong các lĩnh vực công nghiệp nặng, khoa học ứng dụng, du lịch, thương mại và y tế. Ngày nay, Malaysia sở hữu một nền kinh tế thị trường công nghiệp mới tiệm cận mức phát triển, duy trì, giữ vững quy mô GDP danh nghĩa lớn thứ 3 trong khu vực Đông Nam Á sau Thái Lan và Indonesia qua nhiều năm. Malaysia là thành viên của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á, Hội nghị cấp cao ASEAN – Đông Á, Tổ chức Hợp tác Hồi giáo, Liên Hợp Quốc, WTO, Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á – Thái Bình Dương, Khối Thịnh vượng chung các quốc gia và Phong trào không liên kết. Sơ lược về Malaysia Quốc kỳ Châu lụcChâu Á Khu vựcĐông Nam Á Mã vùng60 Thủ đôKuala Lumpur; note – nearby Putrajaya is referred to as a federal government administrative center but not the capital; Parliament meets in Kuala Lumpur Quốc khánh31 tháng 8 Diện tích329,847 km² Nguồn WorldAtlas Dân số người 2019 GDP364,7 tỉ đô la USD – cập nhật 2019 GDP đầu người$11, Tiền tệRinggits MYR Bản đồ Malaysia online Bạn có thể nhấn vào để xem bản đồ toàn màn hình. Nguồn Nền bản đồ Google Map, Open Street Map OSM, Arcgisonline, Wmflabs… Dữ liệu ranh giới lấy từ Database of Global Administrative Areas. Malaysia là một quốc gia thuộc khu vực Đông Nam Á của Châu Á Bản đồ vị trí Malaysia. Nguồn Wikipedia Malaixia ở đâu?. Nguồn Bản đồ vị trí của Malaysia. Nguồn Nguồn Bản đồ vị trí Malaysia. Nguồn Vị Trí Malaysia Trên Bản Đồ Châu Á. Nguồn Bản đồ hành chính Malaysia Bản đồ hành chính Malaysia, thể hiện Bán đảo Malaysia và Đông Malaysia. Nguồn Bản đồ Malaysia. Nguồn Các Bang và Lãnh thổ Liên bang Bản đồ Malaysia. Nguồn Bản đồ hành chính Cục Tình báo Trung ương Mỹ CIA. Bản đồ hành chính Malaysia. Nguồn Ezilon. Bản Đồ Của Malaysia. Nguồn Bản đồ hành chính Malaysia. Nguồn Bản đồ chi tiết lớn của Tây Malaysia. Nguồn Lịch sử Có bằng chứng về việc người hiện đại cư trú tại Malaysia cách nay năm. Tại bán đảo Mã Lai, các cư dân đầu tiên được cho là người Negrito. Các thương nhân và người định cư từ Ấn Độ và Trung Quốc đến từ thế kỷ I CN, lập nên các thương cảng và đô thị duyên hải vào thế kỷ II và III. Sự xuất hiện của họ khiến ảnh hưởng của Ấn Độ và Trung Quốc có tác động mạnh đối các văn hóa bản địa, và người dân trên bán đảo Mã Lai tiếp nhận Ấn Độ giáo và Phật giáo. Các bản khắc bằng tiếng Phạn xuất hiện từ thế kỷ IV hoặc V. Vương quốc Langkasuka nổi lên vào khoảng thế kỷ II ở khu vực bắc bộ của bán đảo Mã Lai, tồn tại cho đến khoảng thế kỷ XV. Từ thế kỷ VII đến thế kỷ XIII, phần lớn nam bộ bán đảo Mã Lai là một phần của đế quốc hàng hải Srivijaya. Sau khi Srivijaya sụp đổ, đế quốc Majapahit có ảnh hưởng đối với hầu hết Malaysia bán đảo và quần đảo Mã Lai. Hồi giáo bắt đầu truyền bá trong cộng đồng người Mã Lai vào thế kỷ XIV. Vào đầu thế kỷ XV, một hậu duệ của hoàng thất Srivijaya là Parameswara thành lập Vương quốc Malacca, đây thường được xem là quốc gia độc lập đầu tiên tại bán đảo Mã Lai. Đương thời, Malacca là một trung tâm thương mại quan trọng. Năm 1511, Bồ Đào Nha chinh phục Malacca, đến năm 1641 thì lãnh thổ này bị người Hà Lan chiếm đoạt. Năm 1786, Đế quốc Anh thiết lập một sự hiện diện tại Malaya, khi đó Sultan của Kedah cho Công ty Đông Ấn Anh thuê Penang. Người Anh giành được Singapore vào năm 1819, và đến năm 1824 thì đoạt quyền kiểm soát Malacca sau Hiệp định Anh-Hà Lan. Năm 1826, người Anh bắt đầu quản lý trực tiếp Penang, Malacca, Singapore, và đảo Labuan. Đến thế kỷ XX, tại các quốc gia Pahang, Selangor, Perak, và Negeri Sembilan, được gọi chung là Các quốc gia Mã Lai liên minh, có các thống sứ người Anh được bổ nhiệm để cố vấn cho các quân chủ Mã Lai theo điều khoản trong các hiệp định mà họ từng ký. Năm quốc gia còn lại trên bán đảo được gọi là Các quốc gia Mã Lai phi liên minh, các quốc gia này không chịu sự quản lý trực tiếp của người Anh, song cũng chấp thuận các cố vấn người Anh. Tiến triển tại Bán đảo và Borneo nhìn chung là tách biệt cho đến thế kỷ XIX. Trong thời gian người Anh cai trị, họ khuyến khích người Hoa và người Ấn nhập cư để trở thành lao công. Khu vực mà nay là Sabah nằm dưới sự cai trị của người Anh với tên gọi Bắc Borneo khi cả Sultan của Brunei và Sultan của Sulu chuyển giao quyền sở hữu các lãnh thổ của riêng họ từ năm 1877 đến năm 1878. Năm 1842, Sultan của Brunei nhượng Sarawak cho James Brooke, các Rajah da trắng kế tập cai trị Vương quốc Sarawak độc lập cho đến khi lãnh thổ này trở thành một thuộc địa vương thất Anh vào năm 1946. Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, quân đội Nhật Bản tấn công, đánh bại quân Anh và chiếm đóng Malaya, Bắc Borneo, Sarawak, và Singapore trong ba năm. Trong thời kỳ này, căng thẳng sắc tộc gia tăng và chủ nghĩa dân tộc phát triển. Sự ủng hộ của dân chúng đối với độc lập tăng lên sau khi lực lượng Đồng Minh tái chiếm Malaya. Hậu chiến, người Anh tiến hành các nỗ lực nhằm hợp nhất việc cai quản Malaya trong một thuộc địa vương thất duy nhất gọi là Liên hiệp Malaya Malayan Union, tuy nhiên điều này bị người Mã Lai phản đối mạnh, người Mã Lai phản đối việc địa vị của các quân chủ Mã Lai suy yếu và việc trao quyền công dân cho người gốc Hoa. Liên hiệp Malaya được thành lập vào năm 1946 và bao gồm toàn bộ các thuộc địa của Anh Quốc tại khu vực bán đảo Mã Lai, ngoại trừ Singapore, song chính thể này nhanh chóng bị giải thể và thay thế bởi Liên bang Malaya Federation of Malaya, chính thể này khôi phục quyền tự trị cho các quân chủ của các quốc gia Mã Lai dưới sự bảo hộ của người Anh. Trong thời kỳ này, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Malaya, quân nổi dậy mà hầu hết là người gốc Hoa tiến hành các hoạt động du kích với mục đích đánh đuổi người Anh ra khỏi Malaya. Tình trạng khẩn cấp Malaya kéo dài từ năm 1948 đến năm 1960, và liên quan đến một chiến dịch chống nổi loạn kéo dài của quân Thịnh vương chung tại Malaya. Sau đó, người ta đưa ra một kế hoạch nhằm Liên hiệp Malaya với các thuộc địa vương thất Bắc Borneo gia nhập với tên Sabah, Sarawak, và Singapore. Ngày đề xuất hợp thành liên bang là 31 tháng 8 năm 1963, tuy nhiên, thời điểm bị trì hoãn cho đến ngày 16 tháng 9 năm 1963 do phản đối của Indonesia dưới quyền Tổng thống Sukarno và Đảng Nhân dân Liên hiệp Sarawak. Sự thành lập liên bang khiến các căng thẳng tăng cao, bao gồm một cuộc xung đột với Indonesia, Singapore bị trục xuất vào năm 1965, và xung đột sắc tộc. Xung đột sắc tộc lên đến đỉnh điểm trong các cuộc bạo loạn sắc tộc ngày 13 tháng 5 năm 1969. Năm 1971, Quốc hội được tái triệu tập, và một liên minh chính phủ mới mang tên Mặt trận Quốc gia Barisan Nasional nhậm chức. Liên minh này gồm UMNO, MCA, MIC, Gerakan bị suy yếu nhiều, cùng các đảng khu vực tại Sabah và Sarawak. Đảng Hành động Dân chủ bị loại ra ngoài, chỉ là một đảng đối lập đáng kể. Đảng Hồi giáo Malaysia cũng gia nhập Mặt trận song bị trục xuất vào năm 1977. Abdul Razak nắm quyền cho đến khi mất vào năm 1976 và người kế nhiệm là Hussein Onn, Mahathir Mohamad nhậm chức thủ tướng vào năm 1981 và nắm quyền trong 22 năm. Dưới thời Mahathir Mohamad, Malaysia trải qua tăng trưởng kinh tế từ thập niên 1980. Thời kỳ này cũng diễn ra một sự biến đổi từ kinh tế dựa trên nông nghiệp sang kinh tế dựa trên chế tạo và công nghiệp trong các lĩnh vực như máy tính và điện tử tiêu dùng. Cũng trong giai đoạn này, bộ mặt của Malaysia biến hóa với sự xuất hiện của nhiều siêu dự án, đáng chú ý trong đó là việc xây dựng Tháp đôi Petronas, Sân bay quốc tế Kuala Lumpur, Xa lộ Nam-Bắc, đường đua quốc tế Sepang, và thủ đô hành chính liên bang mới Putrajaya. Cuối thập niên 1990, Malaysia trải qua náo động do khủng hoảng tài chính châu Á, khủng hoảng tàn phá kinh tế dựa trên lắp ráp của Malaysia. Nhằm ứng phó, Mahathir Mohamad ban đầu tiến hành các chính sách được IMF tán thành, tuy nhiên sự mất giá của Ringgit và suy thoái sâu thêm khiến ông thiết lập chương trình riêng của mình dựa trên việc bảo hộ Malaysia trước các nhà đầu tư ngoại quốc và chấn hưng kinh tế thông qua các dự án xây dựng và hạ lãi suất, các chính sách khiến kinh tế Malaysia khôi phục vào năm 2002. Năm 2003, Mahathir tự nguyện nghỉ hưu để ủng hộ Phó Thủ tướng Abdullah Ahmad Badawi. Ngày 9 tháng 5 năm 2018, Najib Razak đã thất bại trước cựu Thủ tướng, tiến sĩ Mahathir Mohamad trong cuộc tổng tuyển cử toàn quốc tại Malaysia, chấm dứt 60 năm cầm quyền của Liên minh Mặt trận Dân tộc BN. Ngày 12 tháng 5 năm 2018, Najib bị cấm không được ra khỏi nước vì các cáo buộc tội tham nhũng. Ngày 28 tháng 7 năm 2020, Najib bị tuyên án 12 năm tù và phải nộp phạt 210 triệu ringgit tương đương 49,3 triệu USD với tội danh liên quan đến vụ bê bối tham nhũng quỹ đầu tư nhà nước 1Malaysia Development Berhad 1MDB. Đây là lần đầu tiên tòa án của quốc gia này buộc tội một cựu Thủ tướng. Bản đồ vật lý Malaysia Bản đồ vật lý Malaysia. Nguồn Ezilon. Bản đồ vật lý Cục Tình báo Trung ương Mỹ CIA. Bản đồ vật lý của Malaysia. Nguồn Bản đồ vật lý Malaysia. Nguồn Địa lý Malaysia là quốc gia lớn thứ 67 trên thế giới về diện tích đất liền, với km dặm vuông Anh. Tây Malaysia có biên giới trên bộ với Thái Lan, Đông Malaysia có biên giới trên bộ với Indonesia và Brunei. Malaysia kết nối với Singapore thông qua một đường đắp cao hẹp và một cầu. Malaysia có biên giới trên biển với Việt Nam và Philippines. Biên giới trên bộ được xác định phần lớn dựa trên các đặc điểm địa chất, chẳng hạn như sông Perlis, sông Golok và kênh Pagalayan, trong khi một số biên giới trên biển đang là chủ đề tranh chấp. Brunei hầu như bị Malaysia bao quanh, bang Sarawak của Malaysia chia Brunei thành hai phần. Malaysia là quốc gia duy nhất có lãnh thổ nằm cả trên lục địa châu Á và quần đảo Mã Lai. Điểm cực nam của lục địa châu Á là Tanjung Piai, thuộc bang nam bộ Johor. Eo biển Malacca nằm giữa đảo Sumatra và Malaysia bán đảo, đây là một trong các tuyến đường quan trọng nhất trong thương mại toàn cầu. Hai phần của Malaysia tách nhau qua biển Đông, tuy nhiên hai phần này có cảnh quan phần lớn là tương tự nhau với các đồng bằng duyên hải rồi cao lên đồi và núi. Malaysia bán đảo chiếm 40% diện tích đất liền của Malaysia, trải dài 740 km 460 mi từ bắc xuống nam, và có chiều rộng tối đa là 322 km 200 mi. Dãy Titiwangsa phân chia bờ biển đông và tây tại Malaysia bán đảo, dãy núi này là một phần của hàng loạt dãy núi chạy từ phần trung tâm của bán đảo. Các dãy núi này vẫn có rừng bao phủ dày đặc, và có cấu tạo chủ yếu gồm đá hoa cương và các loại đá lửa khác. Nhiều phần trong đó bị xói mòn, tạo thành cảnh quan karst. Dãy núi là đầu nguồn của một số hệ thống sông tại Malaysia bán đảo. Các đồng bằng duyên hải bao quanh bán đảo, có chiều rộng tối đa là 50 kilômét 31 mi, và bờ biển của phần bán đảo dài km mi, song các bến cảng chỉ có ở bờ phía tây. Đông Malaysia nằm trên đảo Borneo, có bờ biển dài km mi. Khu vực này bao gồm các miền ven biển, đồi và thung lũng, và nội lục đồi núi. Dãy Crocker trải dài về phía bắc từ Sarawak, phân chia bang Sabah. Trên dãy này có núi Kinabalu với cao độ m ft, là núi cao nhất Malaysia. Núi Kinabalu được bảo vệ trong khuôn khổ Vườn quốc gia Kinabalu- một di sản thế giới của UNESCO. Các dãy núi cao nhất tạo thành biên giới giữa Malaysia và Indonesia. quần thể hang Mulu tại Sarawak nằm trong số các hệ thống hang lớn nhất trên thế giới. Xung quanh hai phần của Malaysia là một số hòn đảo, lớn nhất trong số đó là đảo Banggi. Malaysia có khí hậu xích đạo, điểm đặc trưng là gió mùa tây nam tháng 4 đến tháng 10 và gió mùa đông bắc tháng 10 đến tháng 2. Các vùng biển xung quanh giúp điều hòa nhiệt độ cho Malaysia. Ẩm độ thường cao, và lượng mưa trung bình hàng năm là 250 cm 98 in. Khí hậu tại Bán đảo và Đông bộ khác biệt, thời tiết Bán đảo chịu ảnh hưởng trực tiếp từ gió thổi từ lục địa, trong khi Đông bộ có khí hậu mang tính hải dương hơn. Các khí hậu địa phương có thể phân thành vùng cao, vùng thấp và vùng duyên hải. Biến đổi khí hậu có thể tác động đến mực nước biển và lượng mưa, tăng nguy cơ lũ lụt và dẫn đến hạn hán. Bản đồ giao thông của Malaysia Bản đồ giao thông Malaysia. NguồnCIA Bản đồ đường Malaysia. Nguồn Bản đồ du lịch Malaysia Bản đồ du lịch Malaysia. Nguồn Bản Đồ Du Lịch Malaysia. Nguồn Bản đồ vệ tinh Malaysia Malaysia Bản đồ vệ tinh. Nguồn Bản đồ độ cao địa hình Bản đồ Độ cao Malaysia. Nguồn Các bản đồ khác Bản đồ các bang Malaysia. Nguồn Xem thêm Tra cứu nhanh bản đồ các nước trên thế giới

diện tích của malaysia