🎽 Nhiễm Trùng Xoang Ở Trẻ Em
VIÊM XOANG Ở TRẺ EM - description. Viêm xoang cấp xảy ra khi có đợt khởi phát cấp tính của tình trạng nhiễm trùng, với các triệu chứng kéo dài dưới 3 tuần, dưới 4 đợt trong năm. Bệnh nhân có các triệu chứng viêm đường hô hấp trên, thường tồn tại 5-7 ngày.
Trẻ thường sẽ bị nhức đầu, đôi khi kèm theo triệu chứng sốt, nghẹt mũi. Đây là những nguyên nhân gây đau đầu thường gặp nhất ở trẻ em. Khi trẻ nhiễm siêu vi, virus gây ra viêm họng, cúm, cảm lạnh viêm xoang, viêm tai giữa kèm theo các triệu chứng như sốt, nghẹt
Nhiễm trùng da. Trẻ mệt mỏi, khó chịu và quấy khóc. Phát ban. Khô mắt và miệng. Rụng tóc. Giảm cân. Dựa vào tất cả các triệu chứng trên, rất khó để đoán biết được rõ ràng một loại bệnh tự miễn cụ thể nào. Hầu hết các triệu chứng như mệt mỏi, sưng tấy và phát ban thỉnh thoảng đến và biến mất.
Viêm xoang ở trẻ em xảy ra khi một trong các xoang kể trên bị tấn công bởi các yếu tố ngoại lại gây hại như vi khuẩn hay virus. Đối tượng chủ yếu của bệnh nằm ở phổ tuổi từ 1-6 tuổi hoặc với các bé bị suy dinh dưỡng và hệ miễn dịch suy yếu. Bệnh xoang thường được chia thành hai dạng chính, bao gồm:
- Nhiễm trùng xoang và não: nhóm nguy cơ cao dễ nhiễm nấm nhất là bệnh nhân đái tháo đường không kiểm soát, người ghép thận. Thường ở trẻ em, đặc biệt trẻ sinh non và nhẹ cân dưới 1 tháng tuổi với các dấu hiệu như buồn nôn và nôn, đau bụng hoặc đau dạ dày
4. Điều trị và phòng tránh viêm xoang ở trẻ em hiện nay. Ở thể cấp tính, điều trị viêm xoang ở trẻ em thường dùng biện pháp nội khoa. Các thuốc thường dùng để điều trị triệu chứng và chống nhiễm khuẩn là kháng sinh, chống viêm, kháng dị ứng và sử dụng nước
Nhiễm khuẩn niệu trẻ em chiếm khoảng 7% ở bé gái và 2% ở bé trai dưới 6 tuổi. Đa số do vi khuẩn ngược dòng với nước tiểu. Đối với trẻ dưới 12 tháng, đa số do vi khuẩn từ đường máu.
Viêm mũi xoang là tình trạng viêm niêm mạc mũi và các xoang cạnh mũi, gây ra do nhiều nguyên nhân như nhiễm khuẩn, siêu vi, dị ứng bệnh hay gặp ở trẻ dưới 6 tuổi. Hiện đang là mùa tựu trường, thời tiết thay đổi thất thường, thuận lợi cho việc gây bệnh. Việc phát hiện và điều trị sớm cho trẻ là vô
Một số nguyên nhân phổ biến gây đau bụng ở trẻ em, bao gồm: 1. Do thói quen ăn uống không điều độ. Hệ tiêu hóa của trẻ nhỏ kém hơn so với người trưởng thành. Vì vậy nếu không ăn uống điều độ, trẻ có thể bị đau bụng, đầy hơi, ợ chua, ợ nóng và buồn nôn.
L84E. Hệ tiêu hóa của trẻ rất dễ bị nhiễm khuẩn do chưa phát triển hoàn thiện. Một trong những căn bệnh thường gặp ở trẻ đó là nhiễm khuẩn đường ruột. Vậy nguyên nhân trẻ bị nhiễm khuẩn đường ruột là gì? Cách phòng ngừa ra sao? Cùng tìm hiểu nhé!Nhiễm khuẩn đường ruột là gì?Nhiễm khuẩn đường ruột là bệnh viêm đường ruột do một số loại virus, vi khuẩn hoặc ký sinh trùng gây ra. Bệnh khiến trẻ bị tiêu chảy, mệt mỏi, đôi khi nôn mửa. Theo Tổ chức Y tế Thế giới WHO, tiêu chảy là nguyên nhân gây tử vong hàng đầu ở trẻ dưới 5 tuổi Ước tính, mỗi năm có khoảng trẻ em trên toàn thế giới tử vong do các bệnh về tiêu chảy. Mặt khác, hệ miễn dịch của trẻ còn yếu nên nguy cơ mắc viêm đường ruột là rất cao. Đặc biệt là tại các quốc gia đang phát triển như Việt nhân trẻ bị nhiễm khuẩn đường ruộtViêm đường ruột thường do virus rota hoặc virus adeno gây nên, ngoài ra còn có nhiều loại virus khác nữa. Những loại virus này rất dễ lây lan, chúng có mặt ở khắp mọi nơi, đặc biệt là những môi trường chung như nhà trẻ, trường hợp. Dưới đây là một số nguyên nhân khiến virus gây viêm đường ruột dễ dàng lây nhiễm trẻTrẻ bị nhiễm khuẩn từ lúc mới sinh Trong quá trình sinh nở, nếu không đảm bảo môi trường vô trùng, mẹ sẽ có nguy cơ bị nhiễm vi khuẩn hoặc Campylobacter. Từ đó truyền sang cho bé qua các cơ quan hô hấp như miệng, mũiHệ tiêu hóa trẻ chưa hoàn thiện Hệ tiêu hóa còn non nớt cũng là một trong những nguyên nhân trẻ bị nhiễm khuẩn đường ruột. Tình trạng nhiễm khuẩn shigella, Salmonella, Campylobacter,… sẽ khiến cho bé bị đau bụng, sốt, viêm ruột, tiêu chảyNhiễm khuẩn từ thức ăn Trường hợp này chủ yếu gặp ở trẻ trên 6 tháng tuổi và bắt đầu ăn dặm. Vi khuẩn có thể đến từ các loại thực phẩm không an toàn, sơ chế không đảm bảo. Từ đó gây ra rối loạn đường tiêu hóa của trẻMôi trường sống không đảm bảo Nguyên nhân trẻ bị nhiễm khuẩn đường tiếp có thể bắt nguồn từ vấn đề vệ sinh xung quanh môi trường sống. Việc sống ở những khu vực ô nhiễm, nguồn nước không đảm bảo hay nhà cửa không được dọn dẹp thường xuyên có thể tạo điều kiện cho vi khuẩn sinh sôi, phát triển và dễ dàng lây nhiễmTrẻ ăn uống thiếu chất Nhiễm khuẩn và suy dinh dưỡng có mối liên hệ mật thiết với nhau. Theo đó, trẻ ăn uống thiếu chất, biếng ăn sẽ làm giảm sự hình thành kháng thể và khả năng miễn dịch. Từ đó, các tác nhân gây hại dễ xâm nhập vào cơ thể trẻ, dẫn đến các bệnh lý nhiễm trùng, phổ biến là viêm đường ruộtMột số nguyên nhân bé bị nhiễm trùng đường ruột khác Viêm đường ruột ở trẻ có thể bắt nguồn từ thói quen hay cho tay vào miệng hoặc chạm vào đồ vật của người bệnh làm virus lây truyền vào cơ thểTrẻ bị nhiễm khuẩn đường ruột có nguy hiểm không?Viêm đường ruột kéo dài để lại hậu quả khá nghiêm trọng, khiến trẻ bị tiêu chảy, chán ăn và sút cân. Nếu không được can thiệp kịp thời, sức khỏe hệ tiêu hóa của bé ngày càng yếu đi, ăn uống không ngon miệng, khả năng hấp thu dinh dưỡng giảm, về lâu dài ảnh hưởng đến sự phát triển thể chất và cân nặng. Nhiễm khuẩn đường ruột kéo dài còn khiến cơ thể trẻ mất nước nghiêm trọng, dẫn đến các biến chứng phức tạo về đường ra, theo Trung tâm kiểm soát và phòng ngừa dịch bệnh Hoa Kỳ, nhiễm khuẩn đường ruột là một trong những nguyên nhân gây tử vong hàng đầu ở trẻ em trên toàn thế giới. Từ những thông tin trên có thể kết luận rằng, nhiễm khuẩn đường ruột có thể trở nên nguy hiểm, thậm chí đe dọa tới tính mạng trẻ nếu không được phát hiện và điều trị kịp phòng ngừa nhiễm khuẩn đường ruột ở trẻ emNắm rõ được nguyên nhân trẻ bị nhiễm khuẩn đường ruột sẽ giúp mẹ chủ động hơn trong việc phòng ngừa, tránh rủi ro không đáng có xảy ra. Dưới đây là một số biện pháp ngăn ngừa nguy cơ nhiễm trùng đường ruột ở trẻ mà mẹ tuyệt đối không được bỏ quaGiữ gìn vệ sinh cá nhân, rửa tay bằng xà phòng trước khi ăn và sau khi đi vệ sinhThường xuyên quét dọn nhà cửa, giữ không gian sống luôn sạch sẽ, thoáng mátNgười chăm sóc trẻ cũng phải vệ sinh sạch sẽ, rửa tay bằng xà phòng trước khi tiếp xúc với trẻBổ sung đầy đủ dinh dưỡng cho trẻ bằng cách đa dạng thực đơn và cách chế biếnNhắc trẻ nhai kỹ thức ăn trước khi nuốtNguồn thực phẩm cho bé phải đảm bảo vệ sinh, an toàn. Đồng thời hạn chế cho bé ăn thực phẩm chế biến sẵn, đồ chiên rán, nhiều dầu mỡVới những bé cai sữa mẹ từ sớm phải sử dụng sữa công thức ngoài thì nên ưu tiên chọn loại sữa dễ hấp thụ và hấp thụ. Đặc biệt là các loại sữa có chứa dưỡng chất HMO giúp tăng cường bổ sung chất xơ PureGOS và bảo vệ miễn dịch đường ruộtBài viết trên đây đã giúp mẹ nắm được nguyên nhân trẻ bị nhiễm khuẩn đường ruột cũng như cách phòng ngừa hiệu quả. Mong rằng, chia sẻ sẽ giúp ích được cho mẹ trong hành trình chăm sóc bé yêu!Nên đọc thêmCách chăm sóc trẻ bị rối loạn tiêu hóa chi tiết từ a-z 7 dấu hiệu trẻ 3 tháng tuổi bị tiêu chảy Nguyên nhân và triệu chứng lồng ruột ở trẻ
Loài trực khuẩn gram âm Haemophilus gây nhiều nhiễm trùng nhẹ và nghiêm trọng, bao gồm vãng khuẩn huyết, viêm màng não, viêm phổi, viêm xoang, viêm tai giữa, viêm mô tế bào và viêm thanh quản. Chẩn đoán bằng nuôi cấy và huyết thanh học. Điều trị bằng thuốc kháng chủng Haemophilus sp là hệ sinh vật bình thường ở đường hô hấp trên và hiếm khi gây ra bệnh tật. Các chủng gây bệnh xâm nhập vào đường hô hấp trên do hít hoặc tiếp xúc trực tiếp. Sự lây lan nhanh chóng ở quần thể không có miễn dịch. Trẻ em, đặc biệt là nam giới, người Da đen và người Mỹ bản địa, có nguy cơ bị nhiễm trùng nghiêm trọng nhất. Điều kiện sống quá đông và trung tâm chăm sóc ban ngày dẫn tới nhiễm trùng, cũng như tình trạng suy giảm miễn dịch, cắt lách và bệnh hồng cầu hình liềm. H. influenzae gây ra nhiều bệnh nhiễm trùng ở trẻ em, bao gồm viêm màng não Viêm màng não nhiễm khuẩn ở trẻ sơ sinh trên 3 tháng tuổi đọc thêm , nhiễm khuẩn huyết Vãng khuẩn huyết Nhiễm khuẩn huyết là sự hiện diện của vi khuẩn trong máu. Nó có thể xảy ra một cách tự phát, trong một số trường hợp nhiễm trùng mô, khi sử dụng ống thông tiểu hoặc ống thông đường tĩnh mạch... đọc thêm , viêm khớp nhiễm khuẩn Viêm khớp nhiễm khuẩn cấp tính Viêm khớp nhiễm trùng nhiễm trùng cấp tính là bệnh nhiễm trùng khớp tiến triển trong vài giờ hoặc vài ngày. Nhiễm trùng ở bao hoạt dịch hoặc các mô xung quanh ổ khớp thường do vi khuẩn – ở... đọc thêm , viêm phổi Trẻ sơ sinh viêm phổi Viêm phổi sơ sinh là nhiễm trùng ở phổi trẻ sơ sinh. Khởi phát có thể là trong vòng vài giờ sau khi sinh và là một phần của hội chứng nhiễm trùng toàn thể của trẻ hoặc xuất hiện sau 7 ngày và... đọc thêm , viêm phế quản Viêm phế quản cấp Viêm phế quản cấp là tình trạng viêm của cây khí-phế quản, thường xảy ra sau nhiễm trùng đường hô hấp trên, xảy ra ở những bệnh nhân không bị rối loạn phổi mạn tính. Nguyên nhân hầu như luôn... đọc thêm , viêm tai giữa Viêm tai giữa cấp tính Viêm tai giữa cấp là nhiễm trùng do vi khuẩn hoặc virut ở tai giữa, thường đi cùng với nhiễm trùng đường hô hấp trên. Các triệu chứng bao gồm đau tai, thường có triệu chứng toàn thân ví dụ... đọc thêm , viêm kết mạc Viêm kết mạc mắt sơ sinh Viêm màng kết mạc mắt ở sơ sinh là hiện tượng viêm kết mạc chảy dịch, chảy mủ do các chất hóa học kích thích hoặc do các tác nhân gây bệnh khác. Phòng ngừa bằng điều trị thuốc bôi tại chỗ lậu... đọc thêm , viêm xoang Viêm xoang Viêm xoang là viêm các xoang cạnh mũi do nhiễm virus, vi khuẩn hoặc nấm hoặc phản ứng dị ứng. Triệu chứng bao gồm ngạt mũi, chảy mũi mủ, và đau mặt hoặc nặng vùng mặt; đôi khi đau đầu, đau nhức... đọc thêm , và viêm thanh quản Viêm nắp thanh quản Viêm nắp thanh quản là một bệnh nhiễm trùng do vi khuẩn tiến triển nhanh chóng ở nắp thanh quản và các mô xung quanh có thể dẫn đến tắc nghẽn đường hô hấp đột ngột và tử vong. Các triệu chứng... đọc thêm cấp. Những nhiễm trùng này, cũng như viêm nội tâm mạc Infective Endocarditis Viêm nội tâm mạc nhiễm trùng là nhiễm trùng của màng ngoài tim, thường do vi khuẩn thường do các vi khuẩn như streptococci hoặc staphylococci hoặc nấm. Triệu chứng điển hình là gây sốt, nhịp... đọc thêm và viêm đường tiết niệu Nhiễm khuẩn tiết niệu UTI ở trẻ em đọc thêm , có thể xảy ra ở người lớn, mặc dù ít phổ biến hơn. Những bệnh này được thảo luận ở các phần khác trong CẨM influenzae không định typ là các chủng gây ra chủ yếu là nhiễm trùng niêm mạc ví dụ, viêm tai giữa, viêm xoang, viêm kết mạc, viêm phế quản. Thỉnh thoảng, các loài không có vỏ gây nhiễm trùng xâm lấn ở trẻ em, nhưng chúng có thể gây ra tới một nửa nhiễm trùng H. influenzae nghiêm trong ở người lớn. Nuôi cấyĐôi khi huyết thanh họcChẩn đoán Haemophilus bằng nuôi cấy máu và dịch cơ thể. Các chủng gây bệnh xâm lấn cần được định typ huyết thanh. Các kháng sinh khác nhau tùy thuộc vào vị trí và mức độ nghiêm trọng của nhiễm trùngTrẻ em bị bệnh nghiêm trọng phải nhập viện và cách ly trong 24 giờ sau khi bắt đầu dùng kháng lựa chọn kháng sinh phụ thuộc vào vị trí nhiễm trùng và tính nhạy cảm; nhiều chủng phân lập ở Mỹ sản xuất beta-lactamase ví dụ > 50% kháng ampicillin. Đối với các chứng bệnh lan toả, gồm viêm màng não, lựa chọn cefotaxime hoặc ceftriaxone. Đối với các trường hợp nhiễm trùng ít nghiêm trọng hơn, cephalosporin đường uống ngoại trừ cephalosporin thế hệ 1 như cephalexin, azithromycin hoặc các macrolid khác, amoxicillin/clavulanate, omadacycline và lefamulin nói chung có hiệu quả. Xem mục bệnh riêng biệt để có các khuyến cáo cụ thể.Cefotaxime và ceftriaxone tiêu diệt thụ thể của H. influenzae, nhưng các kháng sinh khác được sử dụng cho nhiễm trùng hệ thống không tin cậy. Do đó, trẻ em bị nhiễm trùng hệ thống không được điều trị bằng cefotaxime hoặc ceftriaxone nên được cho dùng rifampin ngay sau khi hoàn thành điều trị và trước khi tiếp tục tiếp xúc lại với các trẻ khác. Tiếp xúc trong gia đình có thể mang H. influenzae không có triệu chứng. Những người sống trong gia đình chưa được tiêm chủng hoặc tiêm chủng không đầy đủ < 4 năm có nguy cơ mắc bệnh cao và nên tiêm 1 liều vắc-xin. Ngoài ra, tất cả các thành viên gia đình ngoại trừ phụ nữ có thai nên được dự phòng bằng rifampin 600mg 20mg/kg cho trẻ em ≥ 1 tháng, 10mg/kg cho trẻ < 1 tháng uống một lần/ngày trong 4 ngày. Y tá hoặc người chăm sóc hàng ngày nên được dự phòng nếu ≥ 2 ca bệnh lan toả xảy ra trong 60 ngày. Lợi ích của dự phòng nếu chỉ có một trường hợp đã xảy ra chưa được thiết lập. Một số loài Haemophilus là gây bệnh; phổ biến nhất là H. influenzae gây ra nhiều loại niêm mạc và, ít phổ biến hơn, lan toả, chủ yếu ở trẻ chọn kháng sinh phụ thuộc mạnh vào vị trí nhiễm trùng và đòi hỏi phải đánh giá tính nhạy cảm của kháng kết hợp H. influenzae týp b Hib, được cho dùng trong khuôn khổ tiêm chủng định kỳ cho trẻ em ≥ 2 tháng tuổi, đã giảm 99% tỷ lệ nhiễm trùng xâm xúc gần có thể không có triệu chứng H. influenzae và thường được điều trị dự phòng bằng rifampin. Bản quyền © 2023 Merck & Co., Inc., Rahway, NJ, USA và các chi nhánh của công ty. Bảo lưu mọi quyền.
Viêm xoang là viêm các xoang cạnh mũi do nhiễm virus, vi khuẩn hoặc nấm hoặc phản ứng dị ứng. Triệu chứng bao gồm ngạt mũi, chảy mũi mủ, và đau mặt hoặc nặng vùng mặt; đôi khi đau đầu, đau nhức sọ mặt, và/hoặc có sốt. Điều trị viêm mũi cấp tính do virus bao gồm khí dung mũi và thuốc co mạch tại chỗ hoặc toàn thân. Điều trị nghi ngờ nhiễm trùng do vi khuẩn là kháng sinh, như amoxicillin/clavulanate hoặc doxycycline, cho viêm xoang cấp tính từ 5 đến 7 ngày và trong 6 tuần đối với viêm xoang mạn tính. Những người nghẹt mũi, xịt mũi và sử dụng nhiệt và độ ẩm có thể giúp giảm triệu chứng và cải thiện việc dẫn lưu xoang. Viêm xoang tái phát có thể cần phẫu thuật để cải thiện dẫn lưu xoang có thể được phân loại là cấp tính khỏi hoàn toàn trong 90 ngày. Viêm xoang cấp ở những bệnh nhân suy giảm miễn dịch trong cộng đồng hầu như luôn do virut như rhinovirus, cúm, parainfluenza. Một tỷ lệ nhỏ phát triển nhiễm khuẩn thứ phát với Streptococci, pneumococci, Haemophilus influenzae,Moraxella catarrhalis, hay staphylococci. Đôi khi, áp xe quanh răng của răng hàm trên lan rộng đến xoang trên. Các bệnh nhiễm trùng bệnh viện cấp tính thường là do vi khuẩn, điển hình là do Staphylococcus aureus,Klebsiella pneumoniae,Pseudomonas aeruginosa,Proteus mirabilis, và Enterobacter. Những bệnh nhân bị suy giảm miễn dịch có thể bị viêm xoang cấp do nấm xâm nhập xem Viêm xoang xâm lấn ở bệnh nhân suy giảm miễn dịch Viêm xoang xâm lấn ở bệnh nhân suy giảm miễn dịch Viêm xoang là viêm các xoang cạnh mũi do nhiễm virus, vi khuẩn hoặc nấm hoặc phản ứng dị ứng. Triệu chứng bao gồm ngạt mũi, chảy mũi mủ, và đau mặt hoặc nặng vùng mặt; đôi khi đau đầu, đau nhức... đọc thêm .Viêm xoang mạn tính liên quan đến nhiều yếu tố kết hợp để tạo ra tình trạng viêm mạn tính. Bệnh dị ứng mạn tính, bất thường về cấu trúc ví dụ, polps mũi, chất gây kích ứng môi trường ví dụ ô nhiễm không khí, khói thuốc lá, rối loạn hệ thống niêm dịch lông chuyển, và các yếu tố khác tương tác với các sinh vật lây nhiễm gây ra viêm xoang mạn tính. Các sinh vật thường là vi khuẩn có thể tạo ra màng biofilm trên bề mặt niêm mạc nhưng có thể là nấm. Nhiều vi khuẩn đã được liên quan, bao gồm vi khuẩn Gram âm và các vi khuẩn kị khí vùng miệng họng nhiễm nhiều chủng vi khuẩn là phổ biến. Trong một vài trường hợp, viêm xoang mãn tính là thứ phát từ nhiễm trùng răng. Nhiễm nấm Aspergillus,Sporothrix,Pseudallescheria có thể là mãn tính và có xu hướng tấn công các bệnh nhân cao tuổi và suy giảm miễn xoang nấm dị ứng là một dạng viêm xoang mạn tính có đặc trưng là ngạt mũi, chảy dịch mũi nhày và thường là polyp mũi. Đó là một phản ứng dị ứng với sự hiện diện của nấm tại chỗ, thường là Aspergillus, và không phải là do nhiễm trùng xâm lấn. Các yếu tố nguy cơ thường gặp của viêm xoang bao gồm các yếu tố làm tắc nghẽn dẫn lưu xoang thông thường ví dụ như viêm mũi dị ứng, polyps mũi, sonde mũi dạ dày hoặc đặt nội khí quản qua mũi và các tình trạng suy giảm miễn dịch ví dụ như tiểu đường, nhiễm HIV. Các yếu tố khác bao gồm thời gian nằm phòng hồi sức tích cực kéo dài, bỏng nặng, bệnh xơ hóa nang, và rối loạn vận động nhung mao. Trong bệnh nhiễm trùng đường hô hấp trên URI, màng nhầy ở mũi bị sưng lên làm tắc nghẽn lỗ thông của xoang cạnh mũi và oxy trong xoang được hấp thụ vào các mạch máu của màng nhầy. Việc này dẫn tới áp suất âm trong xoang viêm xoang chân không là khởi đầu của tình trạng viêm xoang. Nếu chân không được duy trì, niêm dịch từ màng nhầy phát triển và đầy xoang; các niêm dịch đóng vai như là một môi trường cho vi khuẩn xâm nhập vào xoang qua lỗ thông xoang hoặc thông qua một tế bào lan rộng lan tỏa hoặc gây ra cục máu đông trong lớp liên kết của niêm mạc. Sự xuất hiện của huyết thanh và bạch cầu để chống lại các nhiễm trùng, và gây đau do áp lực dương phát triển trong xoang tắc nghẽn. Niêm mạc trở nên sung huyết và phù nề. Các biến chứng chính của viêm xoang là sự lan truyền của vi khuẩn ở tại chỗ, gây ra viêm tấy quanh ổ mắt hoặc lan vào ổ mắt, viêm tắc tĩnh mạch xoang hang, áp xe ngoài màng cứng hoặc áp xe não. Triệu chứng và dấu hiệu Viêm xoang Viêm xoang cấp tính và mạn tính gây ra các triệu chứng và dấu hiệu tương tự, bao gồm chảy mũi mủ, nhức và đau ở mặt, ngạt mũi và tắc nghẽn, giảm ngửi, hởi thở hôi và ho đặc biệt là vào ban đêm. Thông thường cơn đau nghiêm trọng hơn trong viêm xoang cấp tính. Vùng xung quanh xoang bị ảnh hưởng có thể đau, sưng và đỏ. Xoang hàm gây đau ở vùng mặt trước xoang hàm, hố nanh, đau răng, và nhức đầu vùng trán. Viêm xoang trán gây đau ở vùng trán và nhức đầu vùng trán. Viêm xoang sàng gây ra đau đằng sau và giữa hai mắt, đau đầu trán thường được mô tả như là sự phân chia, viêm tấy quanh ổ mắt, và chảy nước mắt. Viêm xoang bướm gây ra đau cục bộ ít hơn thường liên quan đến khu vực trán hoặc chẩm. Cảm giác khó chịu có thể gặp. Sốt và ớn lạnh gợi ý sự mở rộng của nhiễm trùng ngoài mạc mũi đỏ và phù nề; có thể có hiện tượng chảy mủ mũi màu vàng hoặc xanh. Mủ loãng hoặc mủ đặc chảy ra ở khe giữa với xoang hàm, xoang sàng trước, hoặc xoang trán bị viêm, và mủ chảy phía trong của cuốn mũi giữa khi viêm xoang sàng sau hoặc xoang triệu chứng của biến chứng bao gồm viêm tấy quanh ổ mắt, sưng nề đỏ, lồi mắt, liệt vận nhãn, nhầm lẫn hoặc giảm mức độ nhận thức, và nhức đầu dữ dội. Đánh giá lâm sàngĐôi khi cần chụp CTNhiễm trùng xoang thường được chẩn đoán bằng lâm sàng. Chẩn đoán hình ảnh không được chỉ định trong viêm xoang cấp tính, trừ khi có những phát hiện gợi ý các biến chứng, trong trường hợp đó CT được thực hiện. Trong viêm xoang mạn tính, CT được thực hiện thường xuyên hơn, và X-quang răng có thể được yêu cầu trong viêm xoang hàm trên mạn tính để loại trừ áp xe quanh răng. Nuôi cấy vi khuẩn ít khi được thực hiện vì cấy vi khuẩn chính xác đòi hỏi một mẫu thu được bằng nội soi xoang hoặc xuyên qua xoang; cấy vi khuẩn phần dịch mủ chảy qua mũi là không đủ. Cấy vi khuẩn thường chỉ được thực hiện khi điều trị kháng sinh bằng kinh nghiệm không thành công và ở những bệnh nhân suy giảm miễn dịch và một số nhiễm khuẩn bệnh viên gây ra viêm xoang. Viêm xoang ở trẻ em ban đầu có thể khó phân biệt được với nhiễm trùng đường hô hấp trên URI. Nghi ngờ viêm xoang do vi khuẩn khi chảy mũi mủ kéo dài trong > 10 ngày kèm theo mệt mỏi và ho. Sốt thường không phổ biến. Có thể đau nhức vùng mặt hoặc khó chịu. Khám mũi thấy chảy mủ và phải loại trừ dị vật mũi. Chẩn đoán viêm xoang cấp tính ở trẻ em là dựa vào lâm sàng. CT tránh được vì lo lắng về việc tiếp xúc với tia X trừ khi có dấu hiệu của các biến chứng mắt hoặc nội sọ ví dụ như viêm tấy quanh ổ mắt, mất thị lực, nhìn đôi, hoặc liệt vận nhãn, có viêm xoang mãn tính không đáp ứng với điều trị, hoặc có mối lo ngại ung thư vòm họng ví dụ, dựa vào tắc nghẽn mũi một bên, đau, chảy máu mũi, sưng mặt, hoặc, đặc biệt liên quan, thị lực giảm. Sưng vùng quanh ổ mắt ở trẻ sơ sinh cần đánh giá nhanh viêm tấy quanh ổ mắt Viêm tổ chức hốc mắt và viêm tổ chức trước vách Viêm tổ chức trước vách viêm quanh hốc mắt là nhiễm trùng của mí mắt và vùng da xung quanh trước vách. Viêm tổ chức hốc mắt là nhiễm trùng mô hốc mắt sau vách. Nguyên nhân có thể do nhiễm... đọc thêm và có thể can thiệp phẫu thuật để ngăn ngừa thị lực suy yếu và nhiễm trùng nội sọ. Các biện pháp tại chỗ để tăng cường dẫn lưu mủ ví dụ, khí dung, thuốc co mạch tại chỗĐôi khi thuốc kháng sinh ví dụ, amoxicillin/clavulanate, doxycyclineTrong viêm xoang cấp tính, việc cải thiện dẫn lưu xoang và kiểm soát nhiễm trùng là mục đích của điều trị. Khí dung; rửa xoang bị viêm bằng dung dịch nóng ẩm; đồ ăn nóng giúp giảm bớt sự tắc nghẽn mũi và thúc đẩy dẫn lưu. Thuốc co mạch tại chỗ, ví dụ phenylephrine 0,25% xịt mỗi 3 giờ hoặc oxymetazolin mỗi 8 đến 12 giờ, có hiệu quả nhưng nên dùng tối đa 5 ngày hoặc trong chu kỳ lặp lại 3 ngày dùng và 3 ngày ngừng cho đến khi viêm xoang được giải quyết. Các thuốc co mạch toàn thân, chẳng hạn như pseudoephedrine 30 mg dạng uống dành cho người lớn 4 - 6 giờ/lần, ít hiệu quả hơn và cần tránh dùng cho trẻ nhỏ. Nước muối rửa mũi có thể giúp các triệu chứng giảm nhẹ nhưng rườm rà và không thoải mái, và bệnh nhân yêu cầu được chỉ dẫn để thực hiện đúng cách; nó có thể tốt hơn cho bệnh nhân viêm xoang tái phát, những người có nhiều khả năng làm chủ và chịu đựng kỹ thuật mũi xịt Corticosteroid có thể giúp làm giảm các triệu chứng nhưng thường mất ít nhất 10 ngày để có hiệu quả. Mặc dù hầu hết các trường hợp viêm xoang cấp tính do virus và tự khỏi, trước đây nhiều bệnh nhân được cho thuốc kháng sinh vì khó phân biệt lâm sàng do virus hay vi khuẩn. Tuy nhiên, mối lo ngại hiện nay về việc tạo ra các vi khuẩn kháng kháng sinh đã dẫn đến việc sử dụng các kháng sinh có chọn lọc hơn. Hiệp hội Bệnh truyền nhiễm Hoa Kỳ đề xuất các đặc điểm sau đây giúp xác định những bệnh nhân nên bắt đầu dùng kháng sinh Từ nhẹ tới trung bình các triệu chứng xoang vẫn tồn tại trong ≥ 10 ngàyCác triệu chứng nghiêm trọng ví dụ, sốt ≥ 39°, đau nặng trong ≥ 3 đến 4 ngàyCác triệu chứng xoang xấu đi sau khi cải thiện ban đầu từ một viêm đường hô hấp trên điển hình của virus "ốm hai lần" hoặc hai pha mắc bệnhBởi vì nhiều vi khuẩn gây bệnh có khả năng đề kháng với các thuốc đã sử dụng trước đây, amoxicillin/clavulanate 875 mg uống mỗi 12 giờ 25 mg/kg uống mỗi 12 giờ ở trẻ em là loại thuốc được lựa chọn đầu tiên hiện nay. Bệnh nhân có nguy cơ kháng thuốc kháng sinh được cho liều cao hơn là 2 g, đường uống mỗi 12 giờ 45 mg/kg dạng uống mỗi 12 giờ ở trẻ em. Những bệnh nhân có nguy cơ kháng thuốc bao gồm trẻ dưới 2 tuổi hoặc trên 65 tuổi, những người đã được điều trị kháng sinh trong tháng trước, những người đã được nhập viện trong vòng 5 ngày qua và những người bị suy giảm miễn dịch. Người lớn bị dị ứng penicillin có thể dùng doxycycline hoặc fluoroquinolone hô hấp như levofloxacin, moxifloxacin. Trẻ bị dị ứng penicillin có thể dùng levofloxacin, hoặc clindamycin cộng với cephalosporin thế hệ 3 cefixime hoặc cefpodoxime. Nếu có sự cải thiện trong vòng 3 đến 5 ngày, thuốc vẫn tiếp tục. Người lớn không có các yếu tố nguy cơ đề kháng được điều trị tổng cộng từ 5 đến 7 ngày; những người lớn có nguy cơ được điều trị trong 7 đến 10 ngày. Trẻ em được điều trị từ 10 đến 14 ngày. Nếu không có sự cải thiện trong 3 đến 5 ngày, một loại thuốc khác được sử dụng. Macrolide, trimethoprim/sulfamethoxazole, và đơn trị liệu với cephalosporin không còn được khuyến cáo vì tính kháng kháng sinh. Cần phẫu thuật cấp cứu nếu có thị lực bị mất hoặc có khả năng mất thị lực. Tiếp cận sử dụng kháng sinh trong viêm xoang cấp tính Được chuyển thể từ Chow AW, Benninger MS, Brook I, et al IDSA clinical practice guideline for acute bacterial rhinosinusitis in children and adults. Clinical Infectious Diseases 54 81041–5 2012. Trong trường hợp viêm xoang mạn tính ở trẻ em hoặc người lớn, các kháng sinh tương tự được sử dụng, nhưng điều trị được cho trong 4 đến 6 tuần. Độ nhạy của các mầm bệnh phân lập từ mủ xoang và đáp ứng của bệnh nhân đối với điều trị hướng dẫn các liệu pháp điều trị tiếp xoang không đáp ứng với điều trị kháng sinh có thể cần phẫu thuật mở xoang hàm, phẫu thuật nạo xoang sàng, hoặc xoang bướm để cải thiện thông khí và dẫn lưu và loại bỏ các mủ đặc trong xoang, biểu mô viêm, và niêm mạc quá phát. Các phẫu thuật này thường được thực hiện bằng phẫu thuật nội soi mũi xoang. Viêm xoang trán mạn tính có thể được điều trị hoặc với sự cốt hóa xoang trán trước hoặc dùng nội soi trong những bệnh nhân được chọn. Việc sử dụng định vị nội soi mũi xoang với các tổn thương tại xoang và ngăn ngừa thương tổn xung quanh các cấu trúc lân cận như mắt và não đã trở nên phổ biến. Sự tắc nghẽn mũi góp phần vào việc dẫn lưu kém cũng đòi hỏi phẫu thuật. Viêm xoang cấp tính ở bệnh nhân suy giảm miễn dịch là do bệnh nhân suy giảm miễn dịch có nguy cơ nhiễm nấm hoặc vi khuẩn xâm nhập mạnh đoán lâm sàng; CT và các cấy vi khuẩn thu được qua nội soi hoặc thông qua thủ thuật xoang được thực hiện chủ yếu cho các trường hợp mãn tính, dai dẳng hoặc không điển sinh có thể chờ trong khi chờ điều trị triệu chứng, thời gian phụ thuộc vào mức độ nghiêm trọng và thời gian của các triệu kháng sinh dòng đầu tiên là amoxicillin/clavulanate, với doxycycline hoặc các fluoroquinolones hô hấp như các chất thay thế. Orlandi RR, Kingdom TT, Hwang PH, et al Tuyên bố đồng thuận quốc tế về dị ứng và nấm da Rhinosinusitis. Int Forum Allergy Rhinol 6 Suppl 1S22–209, 2016. doi Viêm xoang có thể xảy ra ở những bệnh nhân bị suy giảm miễn dịch do tiểu đường được kiểm soát kém, giảm bạch cầu hoặc nhiễm HIV. Chẩn đoán được dựa trên mô bệnh học của sợi nấm trong các tổ chức được lấy ra. Việc sinh thiết ngay tổ chức trong mũi cho mô bệnh học và nuôi cấy được thực hiện. Điều trị đòi hỏi phải kiểm soát các tình trạng cơ bản như kiểm soát đường máu, phẫu thuật cắt bỏ các mô hoại tử, và điều trị amphotericin B đường tĩnh mạch toàn thân. Phẫu thuật xoang tối đa và liệu pháp tiêm tĩnh mạch toàn thân amphotericin B được sử dụng để kiểm soát các nhiễm trùng nguy hiểm tính mạng. Nếu mucormycosis được loại trừ, có thể dùng voriconazole, có hoặc không có và echinocandin ví dụ như caspofungin, micafungin, anidulafungin, thay vì amphotericin.
nhiễm trùng xoang ở trẻ em